Làng Trữ. P3

1. NÉT ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA LÀNG TRỮ
Năm 2004, Trung Trữ được công nhận là Làng Văn hóa. Đấy là danh nghĩa có chứng nhận cấp Nhà nước, thực ra chất Văn hóa đã có từ ngày lập làng xã. Hương ước thành văn bản quy định mọi khía cạnh trong đời sống hàng ngày, mối quan hệ của người dân, với chính quyền, với họ hàng, làng xã. Nghĩa vụ công dân phải thực hiện. Cưới hỏi, ma chay, lễ lạp, hội hè, đình đám… Song lề thói làng quê hình thành và duy trì lâu dài trở thành tập quán, phong tục tuy không thành văn mà mọi người răm rắp, tự giác thực hiện. Công dung ngôn hạnh của các bà các chị là tài sản quý. Trước hết là lời ăn tiếng nói thực sự có văn hóa.. Việc la rầy con cháu khi chúng mắc lỗi, người Trữ không đánh chửi, có chửi thì chửi: “con mẹ mày!” hoặc “Con bà mày”. Trước hết họ thấy con hư tại mẹ, cháu hư tại bà hãy tự mình chửi mình không biết dạy con cháu!. Có thể nói người Trữ xưa không biết nói tục chửi thề và cũng không bao giờ làm như vậy. Cách giao tiếp của người Trữ cũng rất khiêm nhường “tiên trách kỉ hậu trách nhân”, luôn biết nhận lỗi về mình, đảm bảo xóm giềng tối lửa tắt đèn có nhau. Giúp nhau từ việc nhỏ trông chừng con cháu cho nhau đến việc “giúp nhà” để nhà nào cũng có một căn nhà ở. Một trong ba việc lớn đời người
Từ xưa làng Trữ đã có hát xẩm chợ, ngày hội có chiếu chèo sân đình. Trong hai cuộc kháng chiến các đội Văn nghệ cây nhà lá vườn đã tự biên tự diễn phục vụ nhiệm vụ tuyên truyền đường lối chính sách của Đẳng, Chính phủ. Những tiết mục xuất sắc tham gia hội diễn tỉnh, đều được bằng khen. Đến nay, những tiềm năng ấy vẫn tiềm ản, dẫu rằng Văn hóa nghe nhìn đã đổi khác, có nhiều phương tiện hiện đại. Ngày rằm tháng Tám hãy về sân đình dự trại cùng các cháu thiếu niên nhi đồng, đêm liên hoan văn nghệ của các chị các bà, các ông thì người xem đông như đi xem văn công Tổng cục Chính trị. Ngày xưa, một đêm làng Trữ đào xong 5 sào hồ bán nguyệt trước đình Vua. Năm 1930 làng Trữ bán chức để có tiền sửa đình, tạc tượng, năm 2000 rồi 2004 làng kêu gọi dân đóng góp“chống sập” đình và kè đá xây cầu ao hồ. Một tiếng hô cả nghìn người hưởng ứng. Người Trữ được chăm sóc từ lúc sinh ra, có nhà hộ sinh, có trạm xá. Đến lúc về vĩnh hằng . Đường ra nghĩa trang còn lầy lội, một người hô trăm người ủng hộ, có đường bê tông đưa người quá cố về nơi an nghỉ cuối cùng. Làng Trung Trữ đang xây dựng nông thôn mới. Tiêu chí đã rõ ràng. Trung Trữ – làng Văn hóa từ truyền thống đến hiện đại.
HỔ VỀ CHẦU ĐÌNH VUA:


Năm Mậu Thân – 1968 ngày 9 tháng Mười (âm lịch) khí trời mát mẻ, sương mù mờ mờ giăng. Núi Chùa mờ trong làn sương sớm. Một sớm bình yên trong một ngày tạm bình yên của chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Người làng Trung Trữ thấy con gì to như con bò bơi qua sông Chanh. Nhìn vết chân biết là Hổ về làng. Hổ ung dung đi về phía đình, chùa. Sau vài phút dừng chân trước tam quan chùa, hổ vòng qua vườn chùa leo lên núi. Hổ về làng đồng bằng quá bất ngờ! Để bảo vệ dân, Dân quân Du kích Trung Trữ được tổ chức đội hình chiến đấu chặt chẽ, khẩu trung liên bố trí dưới nền đường chân núi sẵn sàng chi viện. Du kích Vũ Văn Nhĩ có súng trường lên núi. Em học sinh lớp 9 Bùi Khả Nhiệm cũng lên núi tìm hổ. Nhìn thấy hổ lấp ló trong hang, em hô lên “hổ đây rồi” liền bị hổ nhảy ra tạt “cánh tay” vào em. Em đã hi sinh. Và, du kích Vũ Văn Nhĩ xông đến nhằm trúng họng hổ đâm lưỡi lê, bóp cò súng. Anh bị hổ bóp nát cánh tay cùng báng súng cũng bị vỡ nát. Sau ít phút chiến đấu với mãnh hổ. Hổ đã bị tiêu diệt, lăn từ lưng chừng núi xuống, mắc kẹt trong hẻm đá sát nóc chùa. Gần một ngày xác hổ được treo cao trên gốc cây gạo chợ Trữ để mọi người chiêm ngưỡng. Đấy là con hổ đực vằn vàng nặng 247 kg, dài (từ đầu đến hết đuôi) xấp xỉ 2,5 mét. Tấm da hổ được nhồi bông, đặt trong lồng kính, trưng bày tại hội trường HTX, sau đó đưa về đặt trong hậu cung đình làng. Xa xưa, Trung Trữ là miền sông nước mênh mang. Sông Hoàng Long khởi nguồn từ những dòng suối của núi rừng Hòa Bình, Thanh Hóa, Ninh Bình, của rừng Quốc gia Cúc Phương. Sông Hoàng Long như sợi chỉ trong xanh về gặp sông Đáy ở ngã ba Gián Khẩu. Hai bên bờ là những quả đồi, ngọn núi nổi tiếng: đồi Me, núi Bái Đính, núi Cắm Gươm, núi hang Cá, núi Thiệu, núi Thuyền Rồng, núi Chùa, Cẩm Quy… như những viên ngọc bích điểm tô miền “Hạ Long Cạn”. Có lẽ núi Thuyền Rông, núi Chùa Trung Trữ, nơi đất linh, mà chúa sơn lâm đã nhiều lần về ẩn tích chăng?. Các cụ truyền lại một chu kì khoảng 60 năm không Hổ về thì Gấu về làng. Đất lành chim đậu, chúa sơn lâm về! Tiếc rằng, hổ về làng việc bất sống là không thể.
ÂM ĐIỆU ĐẶC TRƯNG:
Cách giao tiếp của người Trữ cũng rất khiêm nhường, tế nhị và có âm điệu đặc sắc; thẹn thùng thì “trẽn”, thẹn thùng hơn nữa thì “trẽn trẽn là”. Cụ G. ở xóm Đông tuy đã ngoài 70 tuổi nhưng ngày ngày vẫn váy thâm, yếm nái phơi tấm lưng rám nắng ngoài đồng, khi có khách sang của con từ tỉnh về chơi, cụ vẫn mặc thế, con nhắc “Sao Mẹ không mặc cái áo mới may”, cụ bảo “Trẽn trẽn là”. Cái từ Trẽn đặc trưng ấy còn được dùng để chê bai, nhắc nhở nhau nhỡ làm điều gì không nên, không phải“rõ trẽn chưa”. Hai cô bạn gái, lâu ngày mới gặp lại: “tao mặc thế vầy được không”, – hở thế không trẽn à; chúng mày độ rày có…, cũng goạ goàn. Mai ra chợ mua đôi rổ rá rửa rau vo gạo. Âm giọng đặc trưng Trung Trữ: “trẽn”, “gọa goàn”. Những âm “tr”, “g”, rồi âm “r” cong gẫy lưỡi là của người làng Trữ, đi đâu cũng nhận ra nhau….
KÍNH LÃO ĐẮC THỌ:
Cứ mỗi độ xuân về, theo truyền thống hàng năm đình làng Trung Trữ lại tưng bừng hội “Khai xuân, Thọ lão”, mừng xuân, mừng Đảng, chúc thọ các cụ trong làng. Từ sáng mồng 2 Tết, các cụ được tuổi thọ tập trung tại hội trường các xóm, sau khi làm lễ chúc thọ tại các xóm, mỗi xóm thành lập một đội trống giong, cờ mở rước các cụ ra đình làm lễ dâng hương báo công với vua Đinh, vua Lê, với Bác Hồ và các bậc tiền nhân có công với làng. Các cụ ngực lấp lánh huân chương, hồng hào khỏe mạnh cùng vui đón xuân với con cháu sang ngời nét đẹp truyền thống quê hương, Đình làng thật tưng bừng rộn rã.
Chính quyền địa phương, các đoàn thể, Hội Người Cao tuổi đều có quà chúc thọ các cụ. Hầu như cả làng rủ nhau từng đoàn đến nhà mỗi cụ: ăn miếng trầu thọ, đọc đôi câu đối nài thơ, chúc các cụ “Bách niên, giai lão”. Đáp lại, “Các cụ chẳng quản ngại ngùng Tuổi cao gương sáng sánh cùng thanh niên”…
HỌ BÙI HAY NGỦ HỌ VŨ HAY ĂN:
Làng Trữ khởi thuỷ có 3 họ: Đinh ,Lê, Nguyễn, sau có thêm họ Bùi, Vũ, Phạm, Ngô, Trần, Đoàn…nay đã có trên 30 cửa họ, cùng nhau xây dựng làng quê. Mỗi họ đều có Tổ đường và ngôi mộ Tổ táng nơi đắc địa, có khí thiêng hun đúc.
Vào ngày giỗ Tổ, con cháu trong họ xưa chỉ có con trai, nay mở rộng cả gái, trai, dâu, rể, góp giỗ tế lễ, dâng hương. Cỗ to nhỏ mỗi người đều có phần, dẫu chỉ là gói xôi, miếng thịt thái mỏng gói trong lá chuối, mang về gọi là lộc Tổ. Việc họ là ngày nhộn nhịp nhất, ngoài bàn việc thờ cúng, nay lại thêm phần lập quỹ khuyến học để khen thưởng cho các cháu học sinh giỏi. Họ Bùi hay ngủ: Xưa họ Bùi có nhiều người học hành đỗ đạt “Thư Điền Nguyễn Tử, Trung Trữ họ Bùi”,“Họ Bùi hương cống, họ Tống sinh đồ”. Bởi mộ cụ Tổ táng đúng long mạch mắt con cá vàng, Tổ nằm ở mắt nên cả họ hay ngủ, nhưng họ Bùi thì nói rằng lúc nào cùng thiếu ngủ bởi chăm học quên ngủ. Thực ra đó là cách nói vui, nay theo gương Bác Hồ vĩ đại, con cháu họ nào trong làng Trữ cũng hay chữ, chăm học, đều có người đỗ đạt cao. Người họ Đinh học giỏi hơn cả họ Bùi, nhưng con cháu họ Đinh lại hát rằng“Họ Đinh học nhất làng ta. Ba năm một lớp mới là họ Đinh”, song vẫn còn đó: Đinh Thị Hải được tuyển thẳng vào Đại học Bách khoa, Đinh Thị Lan Anh tuyển thắng vào Đại học An ninh, Đinh Trọng Phúc thủ khoa Đại học Kiến trúc, và Trung ương Ủy đầu tiên – Đinh Tiến Dũng – phải chăng hậu duệ Đinh Bộ Lĩnh. Còn họ Vũ hay ăn, cũng là cách nói vui của dân làng Trữ, các cụ bảo mộ Tổ họ Vũ táng vào hàm con cá vàng; mà cá vàng hay ăn, “hay ăn thì lăn vào bếp”; muốn có cái để nấu nướng trong bếp thì phải làm nhiều, lao động sản xuất giỏi. Quả vậy, họ Vũ rất nhiều nhà giầu, với những cái cổng thâm nghiêm cổ kính, đủ biết trong cổng là nhà cao cửa rộng, ngoài cổng là đồng ruộng lúa thóc đầy đồng. Nay, những họ khác trong làng cũng có rất nhiều hộ giầu, cả làng thi đua xoá đói, giảm nghèo, làm giàu chính đáng, chẳng những cổng thâm nghiêm mà nhà cao tầng, tiện nghi hiện đại không kém gì thị thành…
HŨ MẮM, VẠI DƯA, VẠI GHÉM, LỌ VỪNG
Bốn thứ này hầu như nhà nào cũng trữ. Bốn món ăn mặn, mùa nào thức ấy, thêm rau muống trong ao, mùng tơi trên dậu, cua ốc ngoài đồng, quanh năm là thức ăn mỗi bữa.
Mắm tép: Để bắt con tép bé như cái đầu tăm, người ta đan cái riu to cồng kềnh như cái thuyền câu với dàn chắn rong bèo, rác rưởi cong vút phía trước, rất hoành tráng. Cái riu này do anh chồng điều khiển đẩy đi từng đường, từng lối. Tép bơi vào riu, dồn qua vỉ, xuống đốc riu. Từng mẻ, từng mẻ, anh chồng dốc ngược vào cái rổ mau cho vợ. Cái rổ này cũng to tướng bằng cái nia, phải có đòn làm tay cầm. Chị vợ đãi hết rong rác, bốc từng lẻ tép lên rá. Những con tép bé xíu nhảy xôn xôn, óng ánh dưới nắng sớm, theo chị ra chợ. Làm mắm tép đơn giản, gồm 3 nguyên liệu: tép + muối + thính , nhưng cũng phải có tay, mắm mới đỏ, thơm, ngon, không bị thâm đen thối. Một thời, chai mắm tép nuôi cậu học trò làng Trữ đi trọ học xa nhà. Giờ đây nhiều người xa quê, nhận được chai mắn tép từ quê quý nào bằng. Tiết trời se se lạnh, có bát mắm tép rang với thịt ba chỉ, hoặc đĩa chân giò nướng chấm mắm tép quả thật thú vị. Mắm tép, thịt chân giò nướng, kèm khế chua và lá đinh lăng đủ bữa nhậu. Thịt ba chỉ rán cháy cạnh, cho mắm tép vào rang, món này đặc biệt không thể thiếu lá gừng tươi và khế chua. Vại dưa: Mẹ tôi muối dưa vừa dòn, vừa ngọt, vừa thơm. Ăn dưa cải chấm mắm tép thấm tận chân răng. Dưa muối quá chua, nấu canh dưa ăn đổi bữa, đem kho cá, dưa ngấm mỡ cá, cá ngấm nước dưa, ngon tuyệt. Vại ghém. Người Trữ gọi tên quả cà to màu tím là cà tím, quả cà to lủng lẳng như cái dái dê là cà dái dê, nhưng gọi quả cà thau tháu như quả táo dại là quả ghém. Chọn những quả ghém bánh tẻ, bỏ tai cuống, rửa sạch, để ráo nước, cho vào vại, mỗi lớp ghém rải một lượt muối, đạy vỉ rồi dùng đá nén chặt. Bát canh cua tra vừa muối (đủ nhạt), quả ghém đủ mặn, mỗi bữa ăn hết dăm bảy quả ghém muối với canh cua. Bữa nào cũng ghém canh cua, mỗi vụ cả nhà ăn hết bốn, năm vại. Ăn hết lại muối, dăm hôm là ngấu. Lọ vừng. Gặt mùa xong, gieo mấy luống vừng, thế là nhà nào cũng có một chum, ít thì một cong vừng hạt. Mỗi bữa rang trên lưng bát. Muối trắng rang riêng giã nhỏ rồi trộn vừng giã kĩ..Mỗi cối vừng, thế nào mẹ cũng để dính cối, bọn trẻ cho cơm nóng vào giã nhuyễn, chia nhau như chia bánh mẹ đi chợ về.
MÀU NÂU LÀNG TRỮ:
Nhật Trang
Tôi không sao quên trưa hè ngồi cán bông. Bông trồng ở cánh đồng mầu Văn Thân, Đáy, Chóp Chài. Bông quả chín vào tháng 6, tháng 7 ta. Giưa cái nắng chói chang, bông phơi mình trắng xóa như hoa lê, hoa mận đầu xuân. Cán bông là công việc nặng nhọc và nhàm chán đối với tuổi thơ không chỉ riêng tôi.. Những nắm bông trắng tinh được cho vào bàn cán quay tay. Qua bàn cán, hạt bông ở lại, tựa bông được đẩy sang phía bên kia, trông như những đụn mây trắng muốt giữa trời thu. Bông tựa được thợ cung bông thuê từ dưới Lực Giá lên cung. Bàn cung dài chừng trên dưới 2 mét, thân cung là một thanh gỗ bóng loáng, dây cung làm lằng ruột ngựa rất dẻo, dai và chắc. Thợ cung bông là những chàng trai sức vóc. Rê cần cung vào đống bông tựa, tay kia cầm một cán gỗ ngắn có đục khắc để bật bông: “bịch bịch phèng…bịch bịch phèng…” đó là âm thanh bật bông. Ai đó chơi đàn không lọt lỗ tai, người ta bảo “như bật bông”! Cung bông là để bông tơi ra. Bông cung xong được xe thành con cúi. Từ con cúi kéo thành sợi. Sợi này còn mảnh mai yếu ớt, muốn dệt thành vải buộc phải qua khâu giáo. Trước khi giáo người ta ngâm sợi mấy ngày liền để bông ngậm no nước. Bỏ sợi vào mâm bún, đổ cơm trắng xấp nước, hai chân vò đi vò lại nhiều lần gọi là giáo vải . Mâm bún đục từ đá xanh, đường kính chừng 70 đến 80 phân.. Mâm bún đặt bên cầu ao, dưới bóng cây sung hay cây gáo. Nhìn cô gái quê giáo vải thật lãng mạn. Đã lâu rồi tôi không được thấy lại cái mâm bún giáo vải bằng đá ấy. Nghề dệt vải ở Trữ đã mai một nửa thế kỉ rồi còn gì!
Sợi giáo xong, đem phơi khô trở nên săn chắc và dai. Để dệt thành vải phải qua khâu đánh ống, mắc vải, luồn go tạo sợi dọc, đặt vào khung dệt, chân điều khiển bàn đạp, tay đỡ nhịp lao thoi, tai nghe tiếng sợi đứt và mắt quan sát tìm lỗi sợi. Phụ nữ Trung Trữ dệt vải nhanh như máy. Vừa dệt vừa nói chuyện. Thậm chí người mù như bà Tuyết xóm Tây cũng dệt được vải. Con gái dệt vải suốt ngày ngồi trong cớm, nước da trắng như trứng gà bóc. Chiều chiều các thiếu nữ Trung Trữ dời khung cửi, ra vờ ao đập vải chuẩn bị cho trục bải mới, chỉ hơi vén quần đã lộ ra bắp chân trắng đến nhức mắt các chàng trai. Có lẽ vì thế mà gái Trữ đắt chồng. Vải dệt ra được nhuộm thành hai màu nâu và thâm. Màu nâu lấy từ củ nâu đào trên rừng. Mùa nước lụt trâu được gửi lên Đồng Bài để có cỏ ăn. Người đi gửi trâu vào rừng đào củ nâu mang về. Màu thâm thì vớt bùn ao trát thật kĩ thật nhuyễn lên mặt vải, phơi nắng. Muốn bền màu thì dùng nước lá bàng để hãm. Vải đó được cắt may áo quần. Ở Trữ, người già đến trẻ em đều mặc quần áo nâu. Riêng phụ nữ thì quần thâm đen. Lũ học sinh chúng tôi đi trọ học trên tỉnh, vào cấp Ba lên Đại học cũng mặc quần áo nâu đồng màu, thâm chí cái túi đựng sách vở khoác chéo vai cũng may bằng vải nâu. Cái màu nâu Trung Trữ đã đi cùng tôi suốt một thời thơ ấu cho đến ngày đi bộ đội. Bây giờ về làng hiếm gặp cái màu nâu xưa ấy. Có thể nói dân làng Trữ thuở ấu sống quần tụ như một thế giới riêng, khép kín, mọi nhu cầu hoàn toàn tự cấp tự túc. Có chăng chỉ phải mua một số thứ tối cần thiết như cái kim, hạt muối, thuốc chữa bệnh…Người thiên hạ gán cho trung Trữ cái tên làng Nâu là vậy. Nhưng trong cái màu nâu dung dị ấy có biết bao nhiêu chuyện, bao số phận gia đình và của cả làng trong dòng xoáy thời cuộc…
NHỮNG CÁI CHẾT THƯƠNG TÂM:
Nhật Trang
Trung Trữ ở vị trí chiến lược rất trọng yếu. Từ Trung Trữ có thể án ngữ cầu Gián Khẩu trên QL 1A, kiểm soát được ngã ba sông Đáy, sông Hoàng Long. Chính vì thế sau khi chiếm được Nam Đinh, Pháp cho quân đóng bốt Hoàng Đan, phần để án ngữ vùng tề bắc Ý Yên, phần để kiềm chế cửa khẩu Cầu Đài, nơi người và hàng hóa thường xuyên qua lại giữ vùng tề Nam Định và vùng tự do Ninh Bình.. Nhưng một nhiệm vụ không kém phần quan trong của bốt Hoàng Đan là khống chế Trung Trữ. Trung Trữ là điểm đối đầu trực tiếp giữa ta và địch. Dưới con mắt người Pháp, Trung Trữ như cái gai. Nhổ được cái gai này, Pháp dễ dàng tiếp cận Trường Yên – một chiến khu Gia Khánh xưa, từ đó xốc lên Rịa, chiếm chiến khu Quỳnh Lưu – Nho Quan rồi xộc thẳng vào Kim Tân, Trại Ngọc Thạch Thành – Thanh Hóa thủ đô kháng chiến của Liên khu Ba. Thôn tính và triệt hạ Trung Trữ luôn là mục tiêu theo đuổi suốt thời gian dài trong cuộc chiến 9 năm của thực dân Pháp. Đối phó với âm mưu này, đội du kích Trung Trữ được thành lập rất sớm, nhằm giữ đất, giữ làng, giữ dân và cản phá âm mưu của địch. Lịch sử và thành tích kháng chiến chống Pháp của nhân dân Trung Trữ, nhất là của du đội du kích làng này rất cần được đúc kết, viết lại và trân trọng gìn giữ cho thế hệ mai sau.
Không thôn tính nổi Trung Trữ, cũng không vào được tận nơi triệt hạ làng này, quân Pháp dùng súng tay bắn tỉa, dùng đại bác, moóc- chi-ê từ bốt Hoàng Đan, từ thị xã Ninh Bình thường xuyên bắn phá Trung Trữ. Không ít lần chúng cho máy bay oanh tạc dữ dội. Những cuộc bắn phá đó gây tổn thất rất lớn về người và của cho Trung Trữ. Người dân Trung Trữ không bao giờ quên điều này. Ông Thợng một lực điền xóm Đông đang cày ruộng bị trúng đạn vào bụng chết. Anh du kích Biểu trúng đạn moóc-chi-ê trên đường về nhà cũ. Chị Hợi trong lúc đang làm đồng bị một viên đạn “tắc bọp” trúng động mạch cổ chết. Ông Vom chết trước mâm cơm cúng gia tiên đúng ngày răm tháng Bẩy… Ông Súy, ông Khiển, ông Cần… nay vẫn còn lưu giữ trên người nhiều thương tích rất nặng. Ông Khuê bị một viên đạn xuyên qua ngực sát tim, nguy kịch mấy ngày đêm, may qua được. Trận máy bay địch đánh vào giữa phiên chợ gây nhiều thiệt hại nhất. Bà Miền, núp dưới hầm vẫn bị một mảnh đạn xuyên thủng ruột, chết. Ông Ngôn thợ may, anh Cừu thợ rèn đều trở thành phế thương. Kinh hoàng nhất là trận ngày 24 tháng Ba âm lịch năm 1953, địch bắn đại bác vào lớp học ở Chùa. Thầy giáo Lượng là người chết đầu tiên. Học sinh Lai người Ngô Khê sang học, bị thương sổ ruột nằm vật ngay lối chạy vào hang chùa, tỉnh đến lúc chết, miệng vẫn nheo nhẻo; “cháu là con ông Đáo”. Thanh con ông Quyên, Vinh con ông Hiểu đều chết trong trận này. Cậu bé Hài bị thương vào cánh tay, ít ngày sau gần khỏi, vết thương đã lên da non còn bị trùng uốn ván, chết tức tưởi. Người bị thương không đếm xuể. Lới, Khoa (thôn Bãi Trữ), Phổ, Trấn nằm trong số đó. Gần một nửa lớp học chết và bị thương trong trận oanh tạc dã man này. Vết tích chiến tranh còn lưu lại trên các cột chùa và gốc cây thị trước cửa lớp. Hơn một năm sau mới khôi phục lại được.. Làng Trung Trữ lập nhiều chiến công được Nhà nước trao tặng Huân chương “Làng có công với nước”. Nhưng sự hy sinh, mất mát của Trung Trữ cũng thật lớn lao, đáng trân trọng.
TRUNG TRỮ VỚI ĐỢT KHAO QUÂN
Nhật Trang
Năm 1951, sau chiến dịch Biên giới thắng lợi, Bác Hồ quyết định đợt khao quân thưởng công. Thiếu lương thực, Bác phát động đợt mua lương thực lấy gạo khao quân. Các bô lão Trung Trữ được mời họp tại chùa để quán triệt. Nghe phổ biến quán triệt xong là các vị đều đồng lòng hưởng ứng. Trong cuộc họp đó ông Trụ người xóm Nam, ngẫu hứng làm một bài vè ngay tại chỗ, rồi dóng lên đọc theo điệu hò lơ hò lờ cho mọi người hò theo.
Bài vè đó tôi còn thuộc đến hôm nay: “ Cụ Hồ với dân – như chân với tay – như chày với cối – như cội với cành. Toàn dân dốc một lòng thành. Vâng lời Bác dạy để xứng với lòng thành của Cụ thương dân. Ai ơi Cụ Hồ mua thóc khao quân. Đời người dễ có một lần Cụ mua. Bà con ta hãy thi đua bán nhiều bán rẻ không thua xã nào”. Sau này nghĩ lại thấy đúng như lời bài vè của ông Trụ, đó là lần duy nhất Bác Hồ và Nhà nước ta tổ chức mua gạo khao quân. May thay, dân làng Trung Trữ đã hưởng ứng nhiệt thành, triệt để tận dụng cơ hội này để thể hiện lòng trung thành với Bác Hồ với Đảng ta, quyết tâm đi theo kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.
ĐẠI DIỆN CUỐI CÙNG
CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN TẠI TRUNG TRỮ
Năm 1944, anh cả là Bùi Gấm tranh chức Chánh tổng – thường gọi là Tổng Bạch, năm sau em là Bùi Thi tranh chức Lí trưởng thường gọi là Lí Thi. Hai anh em từ con nhà nghèo lên nắm quyền đứng đầu xã, thôn. Ngày 18 tháng Tám năm 1945 Trung Trữ đứng lên cướp chính quyền. Hai ông trao lại quyền hành cho Việt Minh xã Trung Trữ. Chính con cháu ruột các ông là những người trực tiếp nhận triện đồng, bài chỉ và văn tự của chính quyền phong kiến cuối cùng ở xã Trung Trữ..
Ông Tổng Bạch có 10 người con thì 6 đi bộ đội Anh cả là lão thành cách mạng, hai anh kế tiếp là liệt sĩ. Các anh chị còn lại đều là công nhân, cán bộ nhà nước. ông Lí Thi, sau cách mạng tháng Tám, được kết nạp Đảng, tham gia chính quyền nhân dân ở thôn xã đến cuối đời. Những ông Chánh, ông Lí đến các ông Bạ, ông Quỹ, ông Thơ, rồi ông Trương, ông Đội, ông Cai vân vân của một thời thực dân phong kiến ở địa phương, khi cách mạng nổ ra họ đều tham gia Việt Minh, vào Đảng Cộng sản, làm cán bộ cách mạng cấp cao cũng không ít. Họ đã cống hiến xương máu, tài sản, kinh nghiệm, tài năng, trí tuệ …cho cách mang.
ÔNG LÀ AI?
Một lần, chúa Mường Bi tiếp vị khách phương xa đến không báo trước. Vị khách vào nhà không nói không rằng. Chúa Mường Bi lấy trịch cũng không ra lời. Lát sau, vị khách sai người hầu lấy than đang cháy trong bếp đặt lên đùi mình., thổi than bùng lửa, châm đóm hút thuốc. Chúa Mường kinh ngạc, hỏi: “Khách hà nhân vị?” (Ông là ai?). Vị khách, trật khăn trên đầu, trả lời: Tú Sáu Trung Trữ.
Nghe vậy, chúa Mường Bi, đứng dậy, chắp tay nói: Đệ này nghe tiếng huynh đã lâu, nay mới được gặp. Thật là thất lễ. Nói rồi chúa Mường mời Tú Sáu cùng ngồi, lộng chiêng khắp mường. Chúa mở tiệc khoản đãi Tú Sáu. Từ đấy, Tú Sáu Trung Trữ thường xuyên đi lại Xứ Mường, bày mưu kế để Chúa Mường thu phục các đầu mục địa phương. Và, cùng mộ quân đánh Pháp.
TRAI TRUNG TRỮ:
Ở Trung Trữ, còn lưu truyền nhiều câu phương ngôn, như: “Trung Trữ Tú Tân, làng Xuân Huyện Á, làng Chạ Cai Thường, tổng Trường Cai Kếnh”. “Thư Điền Nguyễn Tử, Trung Trữ họ Bùi”. Nhưng tổng quát hơn là câu:“Trai Trung Trữ nữ Trường Yên” với nội hàm ca ngợi trai tài gái đảm của Trung Trữ và Trường Yên, cùng một cội.
Song, câu phương ngôn xa xưa hơn, nhiều cụ còn đọc để nhớ lại một thời: “Trai Trung Trữ nữ Văn Lung” Hàng năm trai Trung Trữ đi hội Văn Lung kéo dài nhiều ngày đêm. Và, đến năm sau các cô gái Văn Lung mang theo con đi hội đình làng, hát câu lục bát biến thể (6/9): Ra đình hàng Tổng chơi đu Có về Trung Trữ với bố cu thì về. Trai Trung Trữ – nổi tiếng “anh hùng” vậy!. “Làm trai đứng ở trên trời đất / Phải có danh gì với núi sông”. Danh có thể lớn lao. Song tiếng thơm để lại với làng xóm, con cháu thì chết mà như không chết. Trung Trữ có biết bao nhiêu người như vậy. Những câu chuyện kể về một ai đó khác nào như chuyện cổ tích, như huyền thoại kể mãi theo thời gian. Những tên tuổi ấy sống mãi trong lòng dân.
ĐƯỜNG LÊN NÚI
Có nhiều giai thoại về cụ. Chẳng hạn cụ ở hang núi Gòi nhiều hơn ở nhà, dân làng gọi hang này là “hang Thông Đĩnh”. Đó là hang đá rất đẹp, dưới bàn tay chăm sóc của cụ, hang trở thành một tác phẩm nghệ thuật thơ mộng. Ngày ngày cụ lên núi vào hang nghỉ mát, tĩnh tâm suy ngẫm nhân tình thế thái. Con trai cụ Cán bộ cao cấp Quân đội nhân dân Việt Nam. Con trai riêng của vợ là một vên tướng Ngụy (!)
Cụ là người đầu tiên bắc những bậc đá lên đỉnh núi Chùa. Những năm Kháng chiến du kích vẫn theo những bậc đá ấy lên đỉnh núi trực chiến, chỉ huy du kích đánh giặc. Năm 2004 bà con đồng hương Trung Trữ tại Thành phố Hồ Chí Minh công đức xây bậc lên đỉnh núi Chùa. Người già, trẻ em có thể tự mình leo lên đỉnh núi ngắm cảnh miền quê “Hạ Long cạn” Và, được đứng vào chỗ anh du kích Đinh Thế Thư dùng loa nghi binh đánh lui trận càn lớn của quân Pháp vào làng Trữ. Nghe nói ban Văn hóa làng nêu sáng kiến sẽ xây trên đỉnh núi một tượng đài chiến thắng.
ÔNG GẠO VÀNG & CỐNG ĐÁ DỰNG
Ông Đinh Hữu Lực có sức khỏe phi thường. Mỗi bữa ăn nồi ba cơm gạo vàng (gạo để lâu năm), dân làng gọi là “ông Gạo Vàng”. Một lần ông Gạo Vàng thi đấu võ ở Hội Trường Yên. Tan hội, nhân thể ông cắp một phiến đá to lội qua cánh đồng Chanh về bắc cống đầu xóm. Từ đấy cống xóm Tây mang tên “Cống Đá dưng”.
Năm 1948, giặc Pháp càn vào xóm Tây, du kích giật mìn sập cống, chặn bước tiến quân của giặc. Nay cống không còn, đường nông thôn đã được xây dựng lại, bê tông hóa không cần những phiến đá núi. Ông gạo vàng cũng đã về với tiên tổ, nhưng còn mãi tên cống Đá dựng, còn mãi tên tuổi ông Gạo Vàng – Đinh Hữu Lực.
ĐINH VĂN KHOÁNG
- THIẾU NIÊN DŨNG CẢM:
Trở về năm 1930. Hôm ấy có một ông Tây tên là Di Dong chủ đồn điền kiêm mật thám về làng. Ông bày trò chơi: tung những đồng tiền ra sân, treo đồng tiền lên dây để bọn trẻ con tranh nhau vồ, nhảy lên đớp. Vồ được, đớp được là tiền của mình.
Học trò của thầy Thẩm đứng nhìn rồi lẳng lặng tản ra về… Hôm sau đến lớp, thầy Thẩm gọi trò Khoáng, hỏi: “Sao em không vào cướp tiền”. Thưa thầy. Thấy hắn vãy tay, chúng con đều lắc đầu. Thầy Thẩm hỏi tiếp: “Nhà em nghèo, cướp được mấy xu đỡ gia đình phải không.” “Nhà con nghèo, đã có cô dì chú bác cưu mang ạ.” Thầy Thẩm lại hỏi : “Em nghĩ thế nào về trò chơi này”. Trò Khoáng bình tĩnh trả lời: “Những tấm ảnh nó chụp hôm qua sẽ bay về Pháp, người ta cho là dân Anam mọi rợ. Khác nào mình tự sỉ nhục mình.. Một năm, chúng con được thầy dạy dỗ, nên được giác ngộ”. Nói rồi Khoáng cùng các học trò đọc bài thơ SỐNG và CHẾT của thầy . Ngày tưởng nhớ Lê Nin 21 tháng Tư năm 1931, Đinh Văn Khoáng được giao nhiệm vụ cùng anh Lập, anh Nhân cắm cờ trên mố cầu Gián Khẩu. Nhìn lá cờ Cộng sản tung bay dưới nắng mai, trên dòng Hoàng Long huyền thoại, trước sự hân hoan chào đón của dân chúng và sự hốt hoảng của kẻ thù, lòng Khoáng vui như đi hội. Tiếp đó, Khoáng làm liên lạc cho tổ chức. Đường đi của Khoáng là Trung Trữ – Thái Bình. Sau cuộc đình công đòi tăng công gặt và cuộc biểu tình đòi giảm sưu thuế tháng Sáu thắng lợi, phong trào Trung Trữ bị địch khủng bố. Đồng chí Phạm Quang Thẩm bi bắt, cùng hàng chục đảng viên và quần chúng. Đinh Văn Khoáng cũng bị bắt. Trong nhà tù, Khoáng không khai một lời và anh đã anh anh dũng hy sinh khi vừa tròn 16 tuổi. Gương Đinh Văn Khoáng cắm cờ trên cầu Gián Khẩu khác nào gương Lương Văn Tụy cắm cờ trên núi Thúy. Đảng, Nhà nước truy tặng anh là Liệt sĩ.
Và, đây là chuyện của năm 2011 này. Sau 80 năm, chàng thiếu niên 16 tuổi Đinh Văn Khoáng được Nhà nước công nhận là Lão thành cách mạng..
Làng Trung Trữ đã có 27 lão thành Cách mạng và chắc chắn Nhà nước và nhân dân sẽ vinh danh tiếp. Còn hàng mấy chục cụ đã đi đầu trong đấu tranh cách mạng năm 1931 của làng quê. Và, có ai đó vì hồ sơ thất lạc không được vinh danh trên danh nghĩa, thì trong lòng dân, họ vẫn là tấm gương sáng muôn đời – những lão thành cách mạng.
BÙI HỮU THỨC
BẮN CHÁY TẦU PHÁP TRÊN SÔNG HOÀNG LONG: Ngô Quang Triên
Cùng với cuộc hành quân từ Hà Đông vào Vân Đình, Miếu Môn, từ Hà Nam vào Chi Nê – Xích Thổ, ngày 21/3/1947 quân Pháp ở Nam Định dùng tầu chiến, ca nô bọc thép chở 1 tiểu đoàn theo sông Đào, sông Đáy đánh chiếm Ninh Bình nhằm phá Công binh xưởng (K1) của ta đặt trong thung lũng núi đá Trường Yên, đánh chiếm Nho Quan chặn đường rút của ta vào Thanh Hóa Nghệ An..

Trung đoàn 34 sau trận thắng oanh liệt ngày 7/1/1947 đánh bại lực lượng Hải Lục Không quân đến giải vây thành phố Nam Định đã rút tiểu đoàn 62 về giữ Ninh Bình.
Bùi Hữu Thức người xóm Tây thôn Trung Trữ có bằng thành chung và 2 chiến sĩ: Triêm quê Thái Bình, Gầu quê Trường Yên đều đỗ sơ học yếu lược được cử đi Cống Thần – chợ Đại nhận vũ khí về đánh tầu địch. Các anh được quân giơi hướng dẫn thao tác xạ kích và kinh nghiệm bộ đội sử dụng Badôca ta mới sản xuất lập công bắn cháy 2 xe tăng Pháp ở Sơn Lộ khi địch hành quân đánh ra Chùa Trầm – Quốc Oai đầu tháng Ba năm 1947. Tổ chiến đấu của Bùi Hữu Thức về đến tiểu đoàn với 1 khẩu Badôca và 5 viên đạn thì quân Pháp đã chiếm Thị xã Ninh Bình. Đêm 26/3/1947 tiểu đoàn trưởng Hoàng Cao giao nhiệm vụ cho Bùi Hữu Thức cơ động ngay trong đêm lên Bến Mới đón đánh tầu địch vào sáng hôm sau. Khoảng 5 giờ sáng ngày 27/3 tổ cơ động vừa đến làng La Mai thì 3 tầu địch chở đầy quân đã vượt qua Bến Mới chiếm Gián Khẩu. Cầu Gián Khẩu đã bị ta đánh sập. Dưới sông ngược lên thượng nguồn khoảng 1000 mét còn bị ta cắm cọc tre ngăn tầu chiến giặc. Gián Khẩu thuộc địa phận làng Trung Trữ quê Bùi Hữu Thức, nên anh thông thuộc địa bàn như lòng bàn tay. Anh dẫn tổ bí mật tiếp cận xóm Đáy nằm sát chân cầu thì phát hiện khoảng 100 tên địch đã chiếm phố Gián Khẩu, chúng yểm trợ cho bọn công binh dùng mìn mở đường qua cầu và phá bãi cọc tre của ta. “Phải bắn chìm tầu khi chúng chở đầy quân”, cả tổ thống nhất thời cơ đánh địch như vậy. Thức dẫn tổ đến vị trí đặt súng bắn phía trên bãi cọc. Vị trí này gần cửa ngòi dẫn nước từ Hoàng Long vào cánh đồng Trữ rất thuận lợi cho việc rút quân. Anh dự kiến phải đến 2 – 3 giờ chiều chúng mới phá xong bãi cọc tre, nên anh dẫn tổ về thăm gia đình mình. Đến 1 giờ chiều tổ vào vị trí bắn thì 3 ca nô chở đầy quân đã vượt xa trận địa chừng gần 1 cây số. Vừa tiến chúng vừa bắn xối xả lên hai bên bờ nơi chúng nghi ngờ như thôn Tùy Hối, Bãi Trữ, Thiệu…Cả tổ chạy tắt cánh đồng ngô đuổi theo tầu giặc đến bờ sông làng Tri Phong xã Trường Yên quê Gầu thì 2 tầu địch dừng giữa sông yểm trợ cho chiếc tầu thứ 3 gài mìn phá bãi đá ngầm của ta, cả tổ lợi dụng địa hình gò cây lúp xúp đặt súng. Tại đây nhìn rõ các khẩu 12,7 li, phân biệt được cả tiểu liên Tômxơn và Sten trên tay bọn lính. Chúng kéo cả lên boong tầu xì xồ chỉ trỏ, thỉnh thoảng lại nã một băng đạn vào làng Tri Phong. Thức ước lượng cự li, lấy biểu xích 300 m, Ba Gầu nạp đạn, vừa lúc chiêc tầu địch lùi lại, 4 tiếng nổ, 4 cột nước dựng lên, Thức lệnh cho Triêm điểm hỏa, một vừng lửa bùng lên, viên đạn vút đi trúng hông trái tầu địch tạo ra một lỗ thủng bằng cái thúng, nó quay ngang bốc cháy. Bọn lính trên boong bị hất xuống nước, khói đen mù mịt mặt sông. Ba Gầu nạp viên đạn thứ hai, Thức chỉnh lại điểm ngắm và điểm hỏa. Viên đạn nổ ngay trong nòng súng. Bùi Hữu Thức hy sinh. Bọn địch bị đánh bất ngờ. Phát hiện được vị trí đặt súng của ta, chúng bắn xối xả, Ba Gầu bị thương. Tưởng hành quân không gặp trở ngại, chúng tung tiếp 3 tầu thê đội 2 lên Gián Khẩu để đánh tiếp các mục tiêu đã định. Nhưng thê đội 1 bị đánh bất ngờ, 1 tầu hỏng nặng, hàng chục tên lính chết và bị thương. Chúng vội vàng vớt xác lính chết và lặc lè kéo tầu về Gián khẩu. Khoảng 5 giờ chiều cùng thê đội 2 rút về thị xã Ninh Bình. Một tháng sau chúng bỏ Ninh Bình rút về Nam Định, kết thúc đợt hành quân lớn đầu tiên ra Ninh Bình, không thực hiện được ý đồ phá công binh xưởng K1 ở Trường Yên, từ bỏ âm mưu chiếm Nho Quan cắt đường rút quân của ta về khu 4. Ngày 15 tháng 5 năm 1947 giỗ 49 ngày liệt sĩ Bùi Hữu Thức, ông Hoàng Cao thay mặt trung đoàn 34 về chia buồn, thắp hương, giao di vật liệt sĩ cho gia đình. Bùi Hữu Thức – con trai độc nhất của bà Lê Thị Ển.. Bà được truy tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam anh hùng.
NHI ĐỒNG XÓM GIỮA
MUA CÔNG TRÁI KHÁNG CHIẾN: Lê Liên
Xóm tôi bé tí teo, nằm giữa 4 xóm to kềnh nên gọi là xóm Giữa.. Nhiều người phong cho xóm tôi là xóm 2 nhất: bé nhất chỉ có 30 nóc nhà, nghèo nhất chỉ có 2 nhà ngói, còn toàn tranh tre, cửa phên liếp, tường bùn rơm hoặc phên thuyền rách. Dân xóm tôi không có ruộng, quanh năm làm thuê cuốc mướn, có người phải đi xin ăn. Ở tuổi nhi đồng lúc ấy có: Kính, Liên, Nghĩa, Nghện, Trung, Đảo, Tộc, Biểu, Thiệp, Như, Nghĩa, Hỡi. Trong đó chỉ có 4 đứa được cắp sách đi học; còn thì đứa đi ở chăn trâu, bế em, đứa mò cua bắt ốc. Hầu hết đói cơm rách áo.
Sau Cách mạng tháng Tám, mỗi xóm đều có đội Thiếu niên, đội Nhi đồng do các anh chị Thanh niên phụ trách gọi là Huynh trưởng. Riêng đội Nhi đồng xóm Giữa không có huynh trưởng vì các anh chị lớn tuổi đều đi làm thuê nơi xa. Nhi đồng xóm Giữa như rắn không đầu, Mỗi lần có mít tinh ngoài sân đình, các đội thiếu niên nhi đồng các xóm đi cổ động quanh làng, Nhi đồng xóm Giữa đứng nhìn hoặc chạy bám sau đội bạn. Chúng tôi ao ước cũng được mặc đồng phục quần soóc xanh áo sơ mi trắng, đầu đội mũ calô có gắn huy hiệu măng non.. Không có huynh trưởng phụ trách, chúng tôi tự gọi nhau tập hát, lấy thùng, chậu làm trống tập đi đều “Nhanh bước nhanh nhi đồng”. Sau đó chia đôi đánh trận giả khuya mới về nhà. Không có tiền mua trống, không chịu thua các xóm khác, chẳng lẽ xin tiền bố mẹ vừa thoát khỏi trận đói Ất Dậu. Rồi chúng tôi bàn nhau tự kiếm tiền gây quỹ để mua trống ếch, sắm đồng phục. Trung Trữ có nghề dệt vải. Nhà nào cũng sắm “xa”. Trẻ con đều biết kéo sợi. Chúng tôi mang “xa” nhận “con cúi” kéo sợi tập đoàn, vừa kéo sợi vừa hát. Vậy là có tiền do mình làm ra. Rồi chúng tôi nghĩ cách trồng rau bán. Gần miếu Ngoại có đám đất hoang. Nghe cụ Lý Sảng nói đây vốn là gồ tre “Thiên Mã” do cụ Tễ trồng, cụ chết, không ai chăm sóc, tre chết thành bãi hoang. “Đất làng, các cháu cứ trồng”. Cụ Lý Sảng nói vậy. Thế là chúng tôi bắt tay vào khai hoang, trồng rau. Cuộc ra quân rầm rộ đầy khí thế. Từ sáng sớm mỗi đứa một công cụ lao đông. Đứa chặt, đứa phát, đứa đào, đứa cuốc…mồ hôi nhễ nhại, mặt mũi đỏ gay, tay phồng rộp. Hai ngày cuốc xới đã có được mảnh vườn bằng phẳng vuông vức. Người đi làm đồng, đi chợ qua, ai cũng khen. Khai phá xong, chúng tôi phân công kiếm rào, nhặt phân trâu, mua con giống. Chẳng mấy, nhờ công chăm bón, vun trồng, bắt sâu tưới hàng ngày, vài ba tuần sau vườn rau đã tươi tốt xanh mơn mởn. Mỗi lần thu hoạch được hàng gánh, đủ thứ bí bầu cà chua cà ghém. Các bà, các chị trong xóm tình nguyện bán giúp. Chúng tôi đã có một khoản tiền đủ để mua trống ếch và quần áo đồng phục. Giữa lúc Bác Hồ ra lời kêu gọi mua “công trái kháng chiến”, chúng tôi lại bàn nhau hoãn mua trống, ung số tiền quỹ ấy mua công trái kháng chiến. Xin ý kiến bố mẹ đều đồng ý khuyến khích. Cả đội kéo ra đình mua công phiếu, mệnh giá bằng 3 tạ thóc. Tin Nhi đồng xóm Giữa mua công trái kháng chiến như có cánh bay khắp thôn xóm. Loa truyền thanh đặt trên đỉnh núi Chùa phát tin này hai ba ngày liền. Lấy gương ấy cổ vũ phong trào toàn dân mua công trái kháng chiến. Trong cuộc mít tinh toàn xã Trung Sơn,, đội chúng tôi xếp hàng ngang trước kì đài, bác Nguyễn Viễn – Chủ tịch xã đứng trên lễ đài tuyên dương Nhi đồng xóm Giữa. “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tham gia kháng chiến tùy theo sức của mình”. Chúng tôi ai nấy đều phấn khởi, xúc động, hứa chăm ngoan làm theo lời dạy của Bác Hồ kính yêu. Giờ phút thiêng liêng ấy đi theo suốt thời gian công tác sau này, tôi không bao giờ quên. Nay đã ở tuổi “xưa nay hiếm” mỗi lần nhớ lại kỉ niêm tuổi thơ ấy, tôi càng tự hào về một lớp thanh thiếu nhi làng Trữ đã biết làm những việc từ nhỏ nhất đến những việc lớn hy sinh thân mình đóng góp cho hai cuộc kháng chiến của dân tộc thành công và xây dựng đất nước ngày càng giầu mạnh. Kể lại chuyện này các cháu thiếu niên nhi đồng ngày nay cùng nghe và viết tiếp những trang truyền thống hào hùng trong thời đại mới.
THÀ CHẾT KHÔNG CHỊU RƠI VÀO TAY GIẶC:
Bùi Xuân Nghi
Anh Bùi Văn Trang sinh năm 1922, con thứ hai cụ Tổng Bạch người xóm Trại. Sau ngày tham gia cướp chính quyền ở địa phương, anh được trên điều động về chiến khu Quỳnh Lưu tham gia khóa huấn luyện đào tạo cán bộ họat động bí mật trong lòng địch. Sau khóa học, anh được điều về hoạt động bí mật ở vùng Yên Mô.
Một sáng, biết mình bị lộ, nón trên đầu, đòn gánh trên vai anh đóng giả người đi chợ để thoát ra ngoài. Nhưng có chỉ điểm, anh bị địch bắt. Chúng trói chặt hai tay, dẫn anh về đồn. Khi đi qua cầu Yên Thổ xã Khánh Thượng – Yên Mô, Bùi Văn Trang vụt nhảy xuống dòng sông chảy xiết. Bọn giặc xả súng bắn theo anh. Địch cho người vớt xác anh, dã man hành hạ xác anh. Chúng treo biển“cấm không ai được chôn cất tên Cộng sản này!”. Nhưng, lòng dân yêu nước đã bí mật mai táng anh. Một thời gian dài, gia đình anh không nhận được tin về sự hy sinh dũng cảm ngoan cường của liệt sĩ. Bùi Văn Trang. Con gái một của anh có biết đâu bố hy sinh lúc mình tròn một năm tuổi. Rồi mẹ tái giá. Em ở với ông bà nội, phấn đấu học lên Đại học, làm cô giáo cấp III. Và một tin vui, năm 2011 này Liệt sĩ Bùi Văn Trang được công nhận là Lão thành cách mạng cùng đợt với 14 cụ lão thành cách mạng của Trung Trữ
TAY KHÔNG CƯỚP SÚNG GIẶC:
Bùi Xuân Nghi
Anh Đinh Thế Phi sinh năm 1928. Con ông Đinh Thế Hạ người xóm Trại làng Trữ Năm 1947, anh nhập ngũ vào bộ đội địa phương Ninh Bình.
Một ngày đầu năm 1948 anh được giao nhiệm vụ thâm nhập vào lòng địch thuộc xã Ninh Sơn để nắm tình hình. Trời tối, trên đường làng bỗng xuất hiện 3 bóng người vai vác súng vừa đi vừa nói “xì xồ”. Đây là bọn lính Tây đi “ăn sương” không phải lính tuần tra –Phi phán đoán như vậy. Nhưng, chúng đã đến gần chỗ anh nấp. Có thể bị lộ, cũng không thể rút lui. Trong chớp nhoáng, Anh mở chốt lựu đạn và ném, nhưng lựu đạn không nổ. Bi bất ngờ, bọn Tây tưởng bị Việt Minh phục kích, chúng quay đầu chạy thục mạng vào làng. Một thằng vấp ngã. Không chần chừ, Phi lao tới. Thằng này lồm cồm bò dậy. Nhanh như cắt Phi vung tay đấm mạnh vào mặt nó và giật lấy khẩu sung từ tay nó. Anh an toàn.trở về đơn vị Đinh Thế Phi chàng trai Trung Trữ được đơn vị tuyên dương khen thưởng “tay không cướp súng giặc”.. Tin ấy lan nhanh, làm nức lòng bà con xóm Trại – Trung Trữ có người con mưu trí dũng cảm.
ỦY VIÊN TRUNG ƯƠNG ĐẢNG ĐẦU TIÊN:
Ông Đinh Tiến Dũng sinh ngày 10 tháng 5 năm 1961 quê thôn Trung Trữ xã Ninh Giang huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Điện Biên.(trước đó nguyên Thứ trưởng Bộ Xây Dựng) Tháng 5 năm 2010 được Bộ Chính trị điều động về giữ chức Bí thư tỉnh ủy Ninh Bình
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 11 của Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Đinh Tiến Dũng được bầu vào Trung ương Đảng. Ngày 2 tháng 8 năm 2011 ông được Quốc hội bầu giữ chức Tổng kiểm toán Nhà nước. Đinh Tiến Dũng là con thứ trong gia đình có bảy anh em. Cha tham gia bộ đội chống Pháp, giải ngũ về quê dạy học. Mẹ mất sớm. Dũng lớn lên dưới sự rèn luyện của cha và sự đùm bọc của bà con họ hàng. Thời kì Cải cách ruộng đất và Hợp tác xã, người cha – người thầy giáo quê nuôi đàn con trong nghèo túng tưởng không thể vượt qua. Nhưng bằng truyền thống gia đình và nghị lực phi thường, thầy giáo đã nuôi bảy con học hành thành đạt đều là đảng viên. cán bộ nhà nước. Vốn dòng dõi họ Đinh thông minh, nổi tiếng với cụ Tú Tân mà vùng Hoa Lư đã ngợi ca: “Trung Trữ Tú Tân”. Trong cái nôi ấy, Đinh Tiến Dũng đã khẳng định mình và nhanh chóng trưởng thành. Trung Trữ, có nhiều người thành danh. Nhưng Ủy viên Trung ương Đảng thì Đinh Tiến Dũng là đầu tiên.
SÁU ANH EM HỌ NGÔ
Nhật Trang
Ông Ngô Truyên và bà Vũ Thị Tổi ở chòm họ Ngô, có 6 người con trai đặt tên là: Truyện, Trò, No, Ny, Quy, Lục. Ông bị bệnh mất sớm, bà một nách nuôi 6 con. Các con bà, anh nào cũng khỏe mạnh, khôi ngô, tuấn tú. Lớn lên các anh đều lần lượt tham gia kháng chiến. Người anh cả Ngô Truyện tòng quân đầu tiên. Trong một trận đánh, anh bị thương thành thương binh, chuyển ngành về nhà máy đường Vĩnh Trụ, sau về nghỉ hưu tại quê. Người con thứ hai Ngô Trò, sau đổi thành Ngô Hoàng Châu làm cán bộ tuyên huấn Sư đoàn 320, sau chuyển ngành về dân sự. Anh là chuyên viên cao cấp Thanh tra Chính phủ. Người con thứ ba là Ngô No, đi bộ đội đổi thành Ngô Quang Triên. Khoảng những năm 70 anh là Đại đội trưởng đại đội Gió nổi tiếng toàn quân của Sư đoàn quân Tiên phong. Hiện ông Triên nghỉ hưu với quân hàm Đại tá. Người con thứ tư Ngô Văn Ny. Anh trốn nhà đi bộ đội lúc chưa đủ tuổi tòng quân. Năm 1978, tôi gặp Ngô Văn Ny tại Học viện Quân sự cấp cao nay là Học viện Quốc phòng, ông trở lại phục vụ trong binh chủng Tăng-Thiết giáp làm đến chức Tư lệnh binh chủng,với quân hàm Thiếu tướng mới nghỉ hưu. Người con thứ 5 Ngô Quy, đi học đổi thành Ngô Kim Quy. Tốt nghiệp phổ thong, anh tham gia bộ đội chống Mỹ. Nhắc đến Ngô Kim Quy, lính ta ở Quảng Trị đều biết tiếng Quy Ninh Bình với lối đánh áp sát, người đầu tiên dùng súng máy bắn rơi máy bay, bắt sống giặc lái Mỹ. Do gian lao, bom đạn nhiều, sức yếu, anh chuyển ngành với quân hàm Thiếu tá. Người con út Ngô Hải Lục, trong 6 anh em, Lục đẹp trai sức vóc nhất, lại có khiếu Văn nghệ, làm thơ, chơi đàn. Lục cùng nhập ngũ với Quy, nhanh chóng trưởng thành trong quân ngũ. Anh đi B và anh dũng hy sinh tại chiến trường Quảng Trị lúc chưa đầy 30 tuổi. Khi đó anh đang là Tiểu đoàn phó pháo binh. Cả gia đình, cả họ Ngô, cả làng Trữ tiếc cho Ngô Hải Lục. Nếu không, con đường cống hiến và trưởng thành của anh chắc rất dài.
Sau ngày hòa bình lập lại năm 1954, với 4 người con tham gia bộ đội chống Pháp, Nhà nước trao tặng huân chương Kháng chiến cho bà Vũ thị Tôi. Cán bộ xã mời bà lên trụ sở. Khi hỏi đến tên, bà trả lời “tôi là Tôi”. Cán bộ xã cho là bà lẩm cẩm không hiểu liền hỏi lại: “Chúng tôi hỏi tên bà là gì cơ” Bà thật thà trả lời: “Vâng! tên tôi là Tôi”. Không tin có cái tên như vậy, vị cán bộ này nảy sáng kiến ghi thành Vũ Thị Tổi. Câu chuyện này chắc có bị thêu dệt, thêm thắt ít nhiều, nhưng việc gia đình ông bà Truyên cống hiến cho kháng chiến, cho cách mạng cả 6 người con trai là chuyện hoàn toàn có thật.
Nhiều gia đình, tất cả con đều tham gia lực lượng vũ trang, mà gia đình ông Ngô Truyên, bà Vũ Thị Tổi là một điển hình, chẳng những là niềm tự hào của gia đình, họ hàng, làng xóm, của tỉnh Ninh Bình mà là niềm tự hào chung của những bà mẹ Việt Nam, của chung đất nước ta. Giai thoại trở thành huyền thoại.
Viết về 6 anh em họ Ngô làng Trung Trữ, không thể không kể lại cuộc hội ngộ trong một ngày chiến tranh có một không hai của 5 anh em ruột của họ. Những ngả rẽ trên con đường binh nghiệp của từng thành viên trong gia đình họ Ngô Trung Trữ đã xui khiến họ có cuộc hội ngộ kỳ thú. Bây giờ mỗi khi có dịp ôn lại vẫn thấy như bản tráng ca đầy thi vị của lớp thanh niên thời chống Mĩ cứu nước. Vào những ngày tháng 5 năm 1972, chiến tranh đang diễn ra vô cùng ác liệt. Mặt trận B5 tổ chức hội nghị tổng kết rút kinh nghiệm ở động ông Do. Cả 5 anh em họ Ngô đều được về dự hội nghị này: Ngô Hoàng Châu –cán bộ chính trị, Ngô Quang Triên – cán bộ chỉ huy Pháo binh, Ngô Văn Ny – cán bộ chỉ huy Tăng Thiết giáp, Ngô Kim Quy và Ngô Hải Lục – cùng là cán bộ chỉ huy bộ binh cấp tiểu đoàn. Chứng kiến cuộc hội ngộ này, nhiều người lúc đó nói gia đình họ Ngô Trung Trữ có thể tự mình làm khung cho một trung đoàn binh chủng hợp thành. Bây giờ nhớ lại cuộc hội trên, Ngô Kim Quy vẫn nói: “Cuộc gặp mặt của 5 anh em chúng tớ trên đất Quảng Trị năm 1972 nhuốm màu tiểu thuyết, lại pha chút lãng tử. Nhớ lại, bây giờ vẫn thấy bồi hồi như mới diễn ra hôm qua vậy”. Sau hội nghị, lúc chia tay người em út Ngô Hải Lục chợt nhớ ra điều gì, liền lấy vỏ bao thuốc lá Tam Đảo viết dặm anh trai: ‘Trong chiến đấu hữu dũng nhưng không được vô mưu!”. Không ngờ, điều lo ngại này của Lục lại vận đúng vào mình. Anh hy sinh sau ngày 5 anh em hội ngộ trong hội nghị tại động ông Do đúng 4 tháng. Nhận được tin em trai hy sinh, Ngô Thành Quy tìm đến tận nơi thì đã chậm 4 ngày, và không tìm thấy nơi an nghỉ của em, Quy chĩa súng lên trời nổ 3 phát đạn vĩnh biệt, rồi ngậm ngùi trở về đợn vị tiếp tục cuộc chiến đấu mới.
GIA ĐÌNH CỤ ĐINH TRÁC
CÓ NĂM NGƯỜI CON ĐI LÀM CÁCH MẠNG Bùi Kim Minh
Cụ thân sinh cụ Đinh Trác tên là Đinh Công Phiếc quê ở Thái Bình sang làng Trung Trữ lánh nạn vào cuối thế kỷ XIX. Cụ Phiếc được 5 người con nhưng duy nhất chỉ có 1 người con trai tên là Đinh Trác. Sợ rơi vào cảnh tuyệt tự nên gia đình cụ Phiếc đã cho anh Đinh Trác làm con nuôi cụ Hương Khuy dòng họ Đinh Duy để lấy chữ hồng phúc. Lớn lên anh Đinh Trác xây dựng gia đình với chị Lê Thị Đang sinh một mạch 5 người con trai tên là: Đinh Duy Tuội, Đinh Hữu Toại, Đinh Mạnh Toàn, Đinh Văn Triết và Đinh Hữu Nam. Cả 5 anh em đều đi làm cách mạng
. Câu chuyện 5 người con trai của gia đình cụ Đinh Trác xin được bắt đầu từ chuyện cậu bé Đinh Duy Tuội năm 7 tuổi. Lên Bảy tuổi, Tuội lấy vợ – một cô bé cùng làng hơn Tuội 2 tuổi tên là Đinh Thị Hính con gái cả cụ Đinh Thế Miền. Lấy nhau rồi hai người vẫn không về ở với nhau, phần còn nhỏ, phần chưa đủ tiền thách cưới. Gia đình Tuội không có con gái nên Tuội phải làm mọi công việc để đỡ đần cha mẹ. Ngoài ẵm em, xay lúa, giã gạo Tuội còn kiêm cả dần, sàng, kéo vải, tất tần tật không thiếu việc gì. Năm 12 tuổi, vào ngày 29/6/1931 làng Tuội xảy ra một biến động lớn về chính trị. Sáng hôm đó cậu cõng em ra đầu làng xem dân làng kéo nhau xuống huyện phủ biểu tình đấu tranh đòi giảm sưu, giảm thuế Có người đến trước mặt Tuội nói: “cháu cõng em về nhà đi, ở đây nguy hiểm lắm, lớn lên tham gia với các chú”. Tiếc rằng những năm đó Tuội còn quá nhỏ không tham gia được, nhưng những hình ảnh đoàn người quần nâu áo vải vẻ mặt căm hờn đi đấu tranh thì Tuội không thể nào quên. Chỉ mong mình lớn thật nhanh để được làm những việc oai hùng như họ. Năm ngoài 20 tuổi, sau lần sang Ai Lao làm có tiền anh mới đưa vợ về ở chung và ra ngoài xóm Đình nhờ anh Bùi Xuân Khang con cụ Tổng Gấm mua hộ vài sào ruộng để làm. Anh Khang nhận lời và đồng thời tuyên truyền vận động anh Tuội vào tổ Ái hữu, tổ đọc sách. Vốn mê truyện ngay từ nhỏ nên anh đã nhận lời ngay. Từ đó anh thường xuyên ra nhà anh Khang chơi và rất có cảm tình với con người này. Anh Tuội nói với anh Khang: “Cuộc đời tôi vất vả lắm 14, 15 tuổi đã phải theo cha đi làm thợ mộc. Từ làng Quỳnh, Sưa, Sải, Vẽo không chỗ nào là tôi không có mặt, thấy tôi có sức nên bố tôi sắm cho 1 chiếc thuyền đi chở đò rồi vào tận Vĩnh Khương bốc đất đá thuê, kiếm cơm ăn hoặc lên rừng cắt bổi. Cũng may công việc nặng nhọc vất vả, việc nào tôi cũng làm được. Cuộc đời làm thuê cái khổ đã vậy lại còn cái nhục, va chạm với đủ loại người, Tây có, A Nam có, các ông chủ coi mình như con vật, nhiều lúc ức quá muốn nhảy lên đấm vào mặt nó mấy quả rồi muốn ra sao thì ra, nay có anh chỉ cho con đường tôi nguyện đi theo dù khó khăn đến mấy tôi cũng chịu được”. Anh Khang lại nói: “Trước mắt mình vào tổ ái hữu, tổ đọc sách, có đọc sách thì mới hiểu được cái độc ác của bọn Tây nó sang đây để làm hại dân mình chứ không phải đi khai phá văn minh như miệng chúng nói đâu, muốn vậy thì chú phải tuyên truyền vận động nhiều người cùng hiểu cùng tham gia, việc lớn một mình mình không làm nổi đâu”. Nghe xong anh Tuội như nuốt vào lòng từng câu và về vận động luôn 2 người e trai của mình tên là Toại và Toàn cùng các anh Mễ, Gộc, Hữu tham gia. Lấy núi Gòi làm nơi sinh hoạt . Sau năm 1944 phong trào cách mạng ở Quỳnh Lưu lên rất mạnh và đã trở nên công khai. Là một tá điền làm thuê ở đồn điền thuộc phủ Nho Quan anh Tuội đã ý thức được cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nên chính anh đã tham gia vào phong trào quần chúng nổi dậy ở Nho Quan giết tên ác ôn Lục Phụng đuổi đánh tên quan huyện Thái Văn Thịnh và đốt xe ôtô của hắn sau đó tham gia trận đánh lính Nhật ở đồn Som. Trở về quê vào Việt Minh bí mật, tự vệ chiến đấu xã và chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa cướp chính quyền. Tháng 3 năm 1946 anh chính thức đi thoát ly ở Ban kinh tế liên hiệp công đoàn tỉnh. Cho đến tháng 8 năm 1947 về huyện Kim Sơn công tác. Trong thời gian công tác ở vùng địch hậu anh đã tổ chức bắt tên gián điệp Tống Văn Dung quê Nam Định khi hắn vào gặp cha Lê Hữu Từ tại nhà thờ Phát Diệm, giải hắn đi bằng ca nô hắn đã liều mạng nhảy xuống sông trốn, nhưng 2 tay bị trói nên hắn chết đuối. Đến hôm sau người của hắn vớt xác hắn lên đem rạch mồm, đâm nát người hắn, đưa vợ con ra nhận rồi vu cho người của Việt Minh giết hắn, tạo dư luận xấu cho cách mạng. Sau đó chúng tìm cách mưu sát đồng chí Nguyễn Ngọc Ái Bí thư huyện ủy Kim Sơn. Chúng xông vào nhà cụ đồ Hạnh (trụ sở Việt Minh) rạch mồm anh Khoáng con cụ nói là dân công giáo sao không giúp cha Lê Hữu Từ lại làm phản. Chúng phong tỏa tất cả các nhà thờ cho người đến gác tạo thành vành đai trắng. Chúng chém giết bắt bớ tất cả những người nghi là Việt Minh. Trước tình hình đó tỉnh đã kịp thời chỉ đạo rút vào hoạt động bí mật, bám vững địa bàn xây dựng và củng cố các cơ sở vừa bị vỡ . Không còn cách nào khác là phải bám dân, bám ấp, lăn lộn với phong trào dù có phải hy sinh đến tính mạng. Có lần anh đang móc nối với một cơ sở thì bị lộ, nghe tiếng súng nổ anh chạy ra cánh đồng lúa ngâm minh tới cổ, đến nửa đêm chạy vào ngôi chùa gần thôn Côi Trì tìm gặp sư ông, hai người thì thào trong câu chuyện, anh thấy ươn ướt trên cổ, đưa tay lên sờ thì một con đỉa trâu to bằng ngón tay cái hút máu no tròn, anh thản nhiên vứt nó ra thật xa rồi lại tiếp tục bàn bạc với sư ông. Giọng anh lần này rít lên trong cổ: “Nhất định đêm mai mình phải đột nhập vào nhà thờ Phát Diệm lấy súng của Lê Hữu Từ trang bị cho anh em trong vùng địch hậu”. Trăng hạ tuần vừa lên, bóng mấy cây cau đổ dài trên sân chùa, mùi hương hoa và cả mùi hương lúa tháng mười hòa quyện vào nhau gây cho anh cảm giác dễ chịu. Rồi cái đói từ đâu kéo tới, gần hai ngày nay anh chưa được miếng nào bỏ vào bụng, cái dạ dày lép kẹp đang hành hạ anh khổ sở. Sư ông cầm mấy quả chuối luộc đưa cho anh và nói: “Đồng chí ăn đi lấy sức ngày mai chúng ta còn nhiều việc phải làm”. Hai con người, hai đồng chí tuy mỗi người một công việc khác nhau nhưng cùng chung một lý tưởng cách mạng. Sau năm 1950 địa bàn anh hoạt động đã khá lên nhiều, các huyện Yên Mô, Yên Khánh, Kim Sơn đã tạo thành thế da báo và anh cũng là người thành lập ra Chi bộ Đảng đầu tiên ở thị trấn Phát Diệm trực tiếp làm Bí thư Chi bộ. Uy tín của anh ngày càng lên cao, anh em Công đoàn tỉnh đã đặt cho anh cái tên “Con hổ xám vùng đồng bằng”, thời gian này tình hình cách mạng phát triển mạnh và theo yêu cầu trên đã điều anh sang quân đội lên tỉnh Hòa Bình làm nhiệm vụ tiễu phỉ, sau chuyển phụ trách quân pháp liên khu III rồi thẩm phán tòa án quân sự quân khu Hữu Ngạn. Năm 1961 một tai họa ập xuống gia đình anh, người vợ ở quê bị bệnh không may qua đời, anh xin về làm ma cho vợ. Sau một tuần thu xếp công việc ổn thỏa, trở về đơn vị công tác trong lòng anh một nỗi buồn sâu thẳm, thương vợ, thương con, chúng còn thơ dại quá “Ai là người nuôi dạy ba đứa con tôi”. Thời gian dần dần xóa đi những phiền muộn, anh lại lao vào công việc của một người chiến sỹ cách mạng. Đến tháng 5 năm 1969, anh xin xuống làm chính trị viên tiểu đoàn 463 thuộc F 320b huấn luyện và đưa quân đi B. Sáu tháng hành quân vượt Trường Sơn vào chiến trường Tây Ninh. Trở ra Bắc anh tiếp tục làm thẩm phán tòa án quân sự quân khu III cho tới nghỉ hưu.
Tiếp theo người anh cả là anh Toại, anh Toàn và anh Triết. Ba người này tuổi sút soát nhau, còn nhỏ cũng vất vả khổ sở lắm. Bảy, tám tuổi phải đi ở. Anh Triết 12 tuổi đi cầm cày rồi theo cha đi làm thợ mộc. Một lần hai anh Tuội và Toại rủ nhau lên Quỳnh làm thuê, khi đi anh Tuội nói với anh Toại: “Mình cầm quyển sách của Việt Minh này đi cho cánh thợ mộc họ xem khoái lắm đó”. Nghe lời anh, Toại mang theo, tới chợ Quán phát hiện có lính gác Tuội nói với em: “Dúi quyển sách đó xuống ruộng không bị tù đấy”. Không kịp rồi, Toại bỏ vào tay áo xắn lên rồi thản nhiên đứng trước mặt tụi lính cho chúng xét, thấy chả có gì ngoài nắm cơm vắt và mấy thứ đồ lặt vặt bỏ trong túi, chúng liền cho đi. Thật là hú vía! Lần ấy tuy còn nhỏ nhưng
Toại đã xử lý thật khôn ngoan.
Ba anh Toại, Toàn, Triết xây dựng gia đình riêng. Anh Toại với chị Bùi Thị Tí. Anh Toàn với chị Bùi Thị Mầy, cả hai chị đều mang dòng họ Bùi quê xóm Đình còn anh Triết với chị Lê Thị Sượt (tức Vân). Thân mẫu chị Vân cùng thuộc dòng họ Bùi xóm Đình.
Ba người con dâu đều thành phần nghèo nên họ càng thấu hiểu nguyên nhân sâu xa của sự nghèo đói, do vậy các chị đã hết lòng động viên giúp đỡ chồng đi làm cách mạng. Tháng 8 năm 1945 hai anh Toại và Toàn đi thoát ly còn anh Triết ở lại địa phương vào đoàn Thanh niên Cứu quốc. Anh Toại về huyện Gia Khánh còn anh Toàn xuống Yên Mô. Cũng giống như người anh cả, Kim Sơn – Phát Diệm, Yên Mô chỗ nào mà anh không có mặt. Sau khi anh Toại về huyện Gia Khánh được mấy ngày thì chị Hòa cán bộ huyện đã giao cho anh một khẩu súng ngắn vào trong Ninh Hải kiểm tra vụ anh em tá điền nổi dậy giết cha con phó lý. Hoàn thành nhiệm vụ trở về, lên làng Kho rèn cho huyện ba thanh kiếm (kiểu Nhật) sau đó tham gia vụ bắt chiếc xe buôn của Tầu Tưởng trên đoạn đường Cam Giá Đá Nhân. Một năm sau anh lại xuống hoạt động trong vùng Tề. Có lẽ địa bàn Kim Sơn là điểm tụ của ba anh em nhà họ Đinh. Nhưng với anh Toại nằm vùng không dài hơi kiệt sức như anh Tuội và anh Toàn . Trong vòng mấy tháng trên lại điều về quân chủ lực. Bắt đầu một cuộc trường chinh từ Hòa Bình, đi Phú Thọ qua đèo Khế tới thị xã Bắc Cạn vượt qua cầu Hồ Xìn, nước Hai Cao Bằng và ăn tết âm lịch ở đó. Rồi tiếp tục đi Hà Giang qua cầu treo Thanh Thủy. Anh là người đi đầu khi vừa đặt chân xuống mố thì cầu đứt dây, làm 18 người rơi xuống sông có 1 người chết. Gần hai năm học bên Trung Quốc từ tháng 7 năm 1951 đến tháng 01 năm 1953. Trở về nước, anh Toại cùng đơn vị mang về 24 khẩu pháo 105 và 40 xe cam nhông chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là đơn vị pháo binh đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam. Chuyện kéo pháo vào rồi lại kéo pháo ra hơn 60 năm qua nay đã trở thành huyền thoại. Tôi xin trích một đoạn hồi ký của anh trong những ngày tháng đó: “Lúc ấy tôi làm cán bộ Đại đội phó 802. Sau khi lên Đại đoàn nhận lệnh đưa pháo của Đại đội tôi vào trận địa và sau 3 đêm chúng tôi lần lượt đưa hết 24 khẩu pháo 105 ly vào vị trí. Vừa đói, vừa mệt lại kéo pháo dưới hỏa lực địch người nào người đấy rã rời gân cốt. Vừa ổn định lại nhận lệnh kéo pháo ra, chúng tôi trong lòng ấm ức nhưng chẳng ai giám nói, cứ lầm lũi chấp hành”. Khi bộ binh đánh vào đồi Him Lam thì pháo binh của ta bắn kìm chế đồi Độc Lập, vừa bắn được ba loạt anh bị bỏng, hai cánh tay cháy đen thui phải đưa đi bệnh viện dã chiến điều trị. Khi trở về đã kết thúc chiến dịch đợt II và chuyển sang đợt III, đại đội anh lại đưa pháo vào bản Kéo chiếm lĩnh cao điểm 102. Kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ anh được đề bạt Đại đội trưởng và dẫn quân sang Bằng Tường Trung Quốc lấy pháo 105 ly. Tháng 6 năm 1955, anh được đề bạt cán bộ tiểu đoàn. Bước sang giai đoạn xây dựng quân đội chính quy hiện đại, anh cảm thấy sức khỏe không đảm bảo với ba lần bị thương, trong người còn mảnh đạn nên anh xin chuyển ngành về làm Phó ty Kiến trúc tỉnh Ninh Bình cho tới lúc nghỉ hưu.
Biết hai anh đã được điều sang quân đội còn lại Toàn vẫn là người của Đội Thanh niên Tuyên truyền giải phóng quân, hàng ngày lăn lộn với phong trào bám dân bám đất. Trên địa bàn huyện Yên Mô không chỗ nào là anh Toàn không có mặt. Có những thời kỳ anh phải nằm hầm bí mật hàng tháng trời ở nhà bà mẹ Thuần gần chợ Tu xã Yên Thắng để theo dõi ổ gián điệp hoạt động chống phá cách mạng mà chính cai Khoan là tên trùm phản động. Đội tuyên truyền giải phóng quân của anh đã quét mẻ lưới gọn rồi đưa về chùa Trung Trữ giao cho cách mạng xử lý
. Chín năm kháng chiến chống Pháp là chín năm anh Toàn nằm vùng ở Yên Mô. Cho tới năm 1954 sau khi hòa bình lập lại anh lại chuyển sang làm Chủ nhiệm hợp tác xã mua bán Yên Mô. Năm 1965 ở Ban Nông nghiệp tỉnh và là Phó chủ tịch huyện Nho Quan cho tới lúc nghỉ hưu.
Đinh Văn Triết thời gian công tác ở xã tới 25 năm, Phó Bí thư Đảng ủy chuyên làm công tác tổ chức. Tưởng rằng công tác thêm một vài năm nữa anh xin nghỉ. Song tinh thần người cộng sản không cho phép anh nghỉ ngơi
. Cuộc chiến tranh leo thang ra miền Bắc của Đê quốc Mỹ ngày càng mở rộng. Vào cuối năm 1964 tỉnh điều anh sang Ban chỉ đạo giao thông trên tuyến đường từ Hà Nội vào vỹ tuyến 17. Sáng hôm đó, có anh cả ở quân khu về thăm nhà, tiện xe đưa chân em xuống ga Ninh Bình để đi tuyến lửa. Lúc chia tay anh cả nói với em: “Chú vào trong ấy ác liệt lắm đây, mai ngày chiến thắng chúng mình còn sống sót trở về sẽ mở tiệc ăn mừng”. Lời chia tay đơn giản có vẻ khô cứng nhưng nó đã xác định được nhiệm vụ của người chiến sỹ cách mạng mà năm anh em họ nhà Đinh đang theo đuổi. Vất vả lắm anh mới tìm được chỗ ngồi, con tàu rú lên một hồi còi dài rồi lao đi vun vút. Xa xa có tiếng máy bay Mỹ ầm ì, rồi những chùm hoa lửa nổ bùng bùng trên không. Nơi đây đất khu 4 anh đã tận mắt nhìn thấy cảnh chiến tranh hoang tàn, đổ nát man rợ . Nằm trong Ban chỉ đạo giao thông thuộc đường dây 559 chỗ nào địch đánh phá ác liệt, chỗ nào hỏng đường tắc xe, chỗ nào có bom nổ chậm là anh có mặt nắm bắt tình hình, kịp thời giải quyết. Mặc cho B52 tung lên vùi xuống, mặc cho những cơn sốt rừng hành hạ nhưng quyết không làm anh nản chí. Có những thời kỳ khó khăn nhất anh phải trực tiếp xuống làm Bí thư Đảng ủy của một Tổng đội Thanh niên xung phong trên tuyến đường Quảng Bình, Vĩnh Linh và anh đã hoàn thành nhiệm vụ. Sau năm 1970 anh chuyển hẳn sang Lào 3 năm, ngày thống nhất anh lại chuyển về làm Bí thư Đảng ủy công ty đá Đồng Giao. Với anh một người đã có bề dày kinh nghiệm về tổ chức trên 30 năm. Còn nhớ hồi ở bên Lào có lần đi công tác với 2 vị Tướng Đồng Sỹ Nguyên và Đinh Đức Thiện đã khen anh: “Có lẽ đời cậu sinh ra để làm công tác tổ chức, những công việc khó mấy cậu cũng tổ chức thực hiện được. Khá lắm!”.
Đinh Hữu Nam. Anh là người con trai út của cụ Đinh Trác, Bởi con út nên Nam đã được phần ưu ái của cha mẹ và các anh. Nam hiểu được điều đó nhưng trong lòng vẫn ấm ức muốn được cầm súng đánh giặc như bốn người anh của mình. Mặc dù còn đang đi học Nam đã rủ người bạn tên là Đinh Văn Cánh trốn gia đình xuống huyện Gia Khánh xin vào thiếu sinh quân. Biết tin con, mẹ Nam đã lặn lội tìm về để tiếp tục học. Mẹ nghĩ đến tuổi mười tám, đôi mươi con muốn đi đâu thì đi cha mẹ không cấm! Trở về nhà Nam tham gia ngay vào đội thiếu niên cứu quốc và làm liên lạc cho các anh du kích. Nam còn nhớ vào năm 1948 có một lần du kích đánh càn tại làng. Nam đã dùng quả lựu đạn Nhật rút kíp ném vào tụi lính đang xông xáo trên đường. Lựu đạn nổ, tiếng mìn ở cống đá dựng nổ. Súng của du kích cũng nổ làm bọn giặc hoảng hốt chạy như ong vỡ tổ và lập tức rút khỏi làng. Sau những trận tham gia chiến đấu ấy Nam thấy mình lớn lên cả về tinh thần lẫn thể lực. Thế là anh quyết định xin bố mẹ cho đi thoát ly. Bố của Nam không những đồng ý mà còn động viên Nam vững vàng theo các anh trên con đường cách mạng.
Từ năm 1950 anh làm giao thông liên lạc ở huyện ủy Gia Khánh sau chuyển lên Văn phòng tỉnh ủy và được kết nạp Đảng tại đó. Trong thời gian công tác, tổ chức thấy anh là người có năng, lại thông minh, tháo vát, lý lịch gia đình cơ bản nên đã cho anh đi học Bổ túc Công nông hết chương trình lớp 10 và cử anh sang Đức đào tạo cán bộ quản lý Nhà nước 6 năm, học xong anh nhận công tác trong Ban quản lý lưu học sinh 4 năm, tổng cộng là 10 năm ở Đức. Đến năm 1973 anh trở về Việt Nam làm trưởng Ban công nghiệp tỉnh Ninh Bình. Với anh có thể làm ở vị trí xứng tầm hơn nhưng anh đã vui vẻ nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ. Sau đó anh về Xí nghiệp Cơ khí 1/5 giữ chức Bí thư Đảng ủy. Đây chính là bước đột phá đầu tiên của anh người lãnh đạo quản lý kinh tế. Là một người làm công tác Đảng, công tác chính trị anh đã thấu hiểu mọi khó khăn thiếu thốn của nhà máy vào thời điểm chiến tranh vừa kết thúc. Anh đã cùng Ban lãnh đạo nhà máy tìm ra nguyên nhân của nó và trong đầu luôn đặt câu hỏi: “Tại sao nhà máy hai năm liền không hoàn thành kế hoạch? Tại sao anh em công nhân xin nghỉ ốm nhiều để chạy chợ? Tại sao bữa ăn ca của anh em công nhân lại khốn khổ đến như vậy?” Tất cả những điều đó đã được đưa trên bàn hội nghị công nhân viên bàn bạc và giải quyết dứt điểm, đồng thời mạnh dạn sắp xếp lại sản xuất. Từ một xí nghiệp sản xuất yếu kém, hai năm liền không đạt chỉ tiêu, anh đã lãnh đạo nhà máy trở thành lá cờ đầu ngành công nghiệp tỉnh vượt chỉ tiêu 45% kế hoạch. Sau đó trên cử anh đi học hai năm trường Nguyễn Ái Quốc. Học xong anh về đảm trách các đơn vỵ: Phó Chủ tịch huyện, rồi Chủ tịch huyện. Bí thư thị ủy Ninh Bình tới năm 1984 lên làm Phó chủ tịch tỉnh Hà Nam Ninh cho tới lúc nghỉ hưu.
Khi tôi viết bài này thì bốn anh đã lần lượt về với tiên tổ, còn lại Đinh Hữu Nam tuổi ngoại tám mươi hiện đang ở phường Ninh Sơn cùng với cụ bà.
Năm anh em đi làm cách mạng chẳng để lại nhà lầu, xe hơi, vàng thỏi, đất cát như hiện nay người ta đang lao vào những cuộc đỏ đen không tưởng. Tài sản vô giá của các cụ là những người con nay đã trưởng thành cán bộ trung, cao cấp của Đảng trong lĩnh vực quản lý Nhà nước, công an, bộ đội. Của cải vật chất chỉ là vật vô tri, nhưng những nét son đỏ thắm mà các cụ đã viết lên bằng cả cuộc đời mình đi theo cách mạng vẫn còn mãi mãi, thắm tô cho quê hương, đất nước, cho dòng họ Đinh Công. Đó mới là tài sản vô giá giành cho con cháu. Năm người con gia đình cụ Đinh Trác đi làm cách mạng thì ba người được tặng danh hiệu cao quý Lão thành cách mạng. Cả năm vị huy hiệu năm mươi năm, sáu mươi năm tuổi Đảng, Huân chương Kháng chiến Hạng Nhất. Cuộc đời các cụ được ví như những bông hoa hướng dương hướng về phía mặt trời mọc. Phía ấy có ánh sáng của Đảng rọi chiếu sáng ngời chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.