Thứ Ba, 21 tháng 6, 2011

“Hạ Long cạn” cố đô Hoa Lư


Trung Trữ thuộc miền “Hạ Long cạn” cố đô Hoa Lư. Sông giăng thành luỹ, núi mọc như thành, hang động lung linh nhũ đá, hàm ếch hằn sâu mớn nước triệu triệu năm. 

  
Miền Hoa Lư xưa cách biển chẳng bao xa, sậy cói um tùm, sò hến thành cồn, bao la sóng vỗ, thuyền bè xuôi ngược như mắc cửi, băng băng không một lần mắc cạn. Trung Trữ như một trổ nước lớn. Nước từ miền ngược đổ về. Bèo tây, rong rêu, cây rừng, xác thú cuồn cuộn qua làng xuôi trôi ra biển. Sông nước mênh mang để lại bao nỗi thương tâm. Lẫn trong rong rêu bèo bọt ấy có cả xác người! Một chiều nọ, trời yên biển lặng bỗng ù ù gió nổi cơn giông, vòi rồng từ trời cao cắm phập xuống cuốn lên không trung chiếc thuyền chở đầy bông cúi đi chợ Hối Thiệu về. Đứng nhìn thiên nhiên gieo họa chỉ còn biết kêu “Giời”!

 Cả một vùng từ Nho Quan, Xích Thổ xuôi về; từ Hương Tích, phố Cháy, chợ Đại chảy xuống; từ Bợi, Vệ ngược lên – mênh mang sông nước. Tre mọc giăng giăng thành bờ thành luỹ, dạt dào sóng vỗ, ngả nghiêng bão bão tố đời người. Xa xưa, người ta nhìn ngọn núi, gồ tre mà nhận ra làng xóm. Làng Trung Trữ được Hoàng Long Giang, sông Đáy, sông Chanh bao bọc, vòng tay ôm ấp.


Lễ hội Cố đô Hoa Lư
Sông nước mênh mang cũng cho những kỉ niệm tự hào. Một lần vào năm 1953, chiếc thuyền ván đinh tải gạo Chính phủ va vào trụ cầu bị đắm, cả làng Trung Trữ hò nhau cứu. Người quang gánh, thúng mủng, gầu chậu chuyển gạo lên sân đình hong khô. Người mang gỗ ván, bóc vỏ cây gạo vá thuyền. Ngày hôm sau thuyền chở gạo lại ra chiến trường không hề hao hụt. Và sông nước cũng cho nhiều cảm xúc. Những đêm bàng bạc trăng soi, ánh hoa lục bình lấp loáng, dăm ba cây nêu đèn treo mờ đục, thỉnh thoảng điểm vào đêm vài ba tiếng vạc mồi chát chúa. Xa xa kia trên dòng Hoàng Long Giang một giọng hò của anh chân sào vọng vào sườn núi khuấy động mây nước sông sâu. Và một lời ru, một câu lảy Kiều, một nhịp trống phách từ khoang đò dọc thẳm vào sông núi trời mây, đọng tâm can con người.
Bọn trẻ con ở cái tuổi ăn không biết no lo chưa tới, cứ vô tư tận hưởng đồng trắng nước trong. Chiều chiều, những cô bé “tuổi hoa” tụt hết áo quần giấu vào gốc si gốc gạo, ào xuống ao hồ nô đùa thỏa thích, bơi mỏi thì lên bờ đu rễ si, đánh võng rễ đa đón những bông hoa gạo như chùm lửa từ ngọn cây rơi xuống… Ngày xưa bà Đàm Thị ra sông tắm mang thai sinh Bộ Lĩnh. Ngày nay, những bà mẹ làng Trung Trữ quanh năm dãi gió dầm sương đánh vật với sông nước sinh ra những đứa trẻ, trong những đứa trẻ ấy có hai anh hùng, một vị tướng, hàng chục thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư.
Chao ôi! Sông nước mênh mang…
Trên là trời, dưới là cá. Từ đòng đong, cân cấn, thầu dầu, mài mại, rô cờ rô don đến trê, hẻn, chuối, chõn, trắm, mè, trôi, chép, rói, măng, bống, diếc, ba ba, ốc nhồi, ốc vặn, ốc biêu, ốc tre, ốc nứa, cua cái, cua rốc, cua cáy, cua rạm… Và, tép tôm nhiều hơn trấu. Tôm trứng, tôm càng, tép gạo, tép riu, tép vó, tép đơm… có nước là có cá, có nước là có cua ốc, có nước là có tôm tép.
Người đồng chiêm nghĩ ra trăm cách đánh bắt: chài, lưới, nơm, rập, riu, dậm, nhậy, lờ, vẹ, đăng, đó, vó bè, vó tay, câu dây, câu vút. Và, đặc biệt hơn cả là cái “bơ lơ”. Cá chép, cá trắm ăn chìm chui đầu vào cái “bơ lơ” chết tiệt ấy không thể trở mình quay đầu bơi ra được, đành nằm chờ người vớt lên thuyền.
Người đồng chiêm đánh bắt cá theo vụ. Vào vụ nước “Mồng bốn cá đi ăn thề, mồng tám cá về cá vượt ngũ môn” dưới trời mưa vần vũ, sấm ùng uoàng, chớp loang loáng, người ta ào xuống sông nước. Người nơm, người rập, người vó, người đinh ba, mình trần quần cộc, hợp thành từng tốp, từng đoàn đánh bắt. Người được ít cũng dăm ba con, người nhiều thì vô kể, mang vác không xuể thì từng xâu thả dưới ngòi rộc lôi về bến, gọi vợ khiêng về.
Những ngày trời yên biển lặng, đồng trắng nước trong, từng đoàn trẻ con, người lớn mình trần trùng trục vác dậm tràn xuống cánh đồng lưng bắp chân nước. Từng tốp một quây dậm thành hàng rồi vác bùng bục ra xa, dàn vòng cung khua ầm ầm dồn cá tôm về phía dậm. Họ xô về dậm của mình, nhanh như cắt dậm ai người ấy nhấc. Cánh đồng Chanh nằm giữa hai làng Trung Trữ - Trường Yên cứ sôi lên mỗi ngày như vậy.
Khi nắng tháng Sáu đổ lửa xuống, nước đồng khô cạn, chỉ còn những vũng nước và cây lát bát, cụm tóc tiên. Các cô bé nhà nghèo đội nón mê, đeo dỏ, liêu xiêu bước chân bì bỗm lội tìm từng con cua, con ốc trong vũng nước, gốc lát bát, tóc tiên kia. Đó đây trên những bờ ngòi, bờ rộc, mỗi quãng, mỗi quãng, một bé gái thả những vuông vó nhon
Tháng Bảy, tháng Tám nước rừng đổ về, đồng ruộng nước ngập đầu người. Đồng trắng nước trong, gió lặng, bèo trôi. Đó đây lẳng lặng chiếc thuyền câu bé tẻo teo của anh “câu quệt”, hay lẳng lơ thuyền vợ chồng nhà quăng chài thả lưới, hay ầm ĩ vợ chồng nhà thuyền chài gỗ lưới, gõ đăng. Và ông già râu tóc trắng như cước mà nước da hồng hào, quăng đốc sào lao thuyền về chặng vẹ, nhấc lên vài ba con chép to bự.
Hoàng hôn đổ xuống, khói lam chiều thơm lựng cá nướng, cá kho, canh cua, dấm ốc, tép rang, tôm luộc…
Nhưng, một xâu cá, một rổ tép tôm không mua nổi đấu gạo. Đói vẫn hoàn đói, rét vẫn hoàn rét!
Giữa một vùng, nước lũ lưng ngọn tre, từ đường làng vào cổng ngõ rồi từ ngõ cổng vào sân lên nhà bao nhiêu là bậc “tam cấp” - nền nhà nào cũng phải tôn cao. Các bác “thợ đấu” đảm nhiệm. Một mình một thuyền một mai. Nước quá ngực, đào từng thép mai, chân hất tay vất đất lên thuyền. Chiếc thuyền nan đầy mép cạp, bác thợ đấu độc chiếc khố, như tượng đồng đen đẩy sào lao thuyền vào tận rộc, bắc ván lao đất lên bờ. Cứ thế, cứ thế để có cái nền nhà cao tránh lụt. Nền thì cao mà nhà thì thấp, âu là chống bão đồng chiêm thường vượt cấp 12. Người Trung Trữ sống chung với lũ lụt, bão tố.
Nhà Trung Trữ chỉ một gian hai chái, lớn hơn là 3 gian hai chái, lớn hơn nữa 5 gian vẫn thêm hai chái. Mỗi chái là một buồng. Trong buồng kiêm nhiều chức năng: kê giường ngủ, buộc mắc áo, đặt bồ thóc, hũ giống. Gian giữa là không gian trang trọng của mỗi gia đình. Nhà khá giả lập bàn thờ đủ đại tự hoành phi câu đối. Nhà nghèo cũng có bát hương gia tiên. Trước bàn thờ xưa kê sập gụ, bộ tràng kỷ, nay là bộ xa lông. Hiên nới rộng làm nơi kê chõng tre ăn cơm uống nước, hàng xóm sang chơi chuyện trò bù khú mỗi tối trăng lên.
Xưa, mỗi xóm chỉ dăm mười nhà có nhà ngói, sân gạch, cổng xây, còn toàn là nhà tranh vách đất. Dựng được gian nhà ở là 1 trong 3 việc lớn đời người (tậu trâu, lấy vợ, làm nhà). Chỉ cần nghe là cả họ, cả chòm xóm, có khi cả làng “đi giúp nhà”. Giúp một, hai buổi. Chỉ bát nước chè xanh, miếng trầu, không cơm mặn, không tiền công. Nếp sống cộng đồng ấy, nhà nghèo cũng có gian nhà ở. Thương người như thể thương thân. Bao nhiêu năm qua rồi, còn nguyên hình ảnh đêm đêm ngon giấc ngủ, nhà không cần khóa, cổng không cần đóng. Nghèo mà không trộm cắp.
Mùa khô, nước rút đi phủ lớp phù sa trên đồng ruộng. Cây cỏ như được bón thúc mọc xanh bờ, xanh rãnh, xanh bãi hoang. Rau má, rau diệu, tầu bay, chòm bóp, dền gai, rau tạy, rau khúc, khoai nước, khoai ngứa, củ ấu, củ chóc, tóc tiên. Gặp năm đói kém chả kể “rau dại rau khôn” đến như cây nghể - trâu bò không đụng mõm, năm 45 cũng cứu được khối người khỏi chết đói. Các cụ bảo” “Cây dại cứu người khôn” là vậy.

Xưa, Trung Trữ cấy một vụ chiêm. Thu hoạch xong đàn ông đi làm thuê ăn cơm thiên hạ. Thợ mộc, thợ nề từng tốp đi xa. Người thạo sông nước thì chài, lưới, lờ, vẹ, đó, đăng đánh bắt cá cua. Người không nghề, có sức đi gánh thuê hàng sang Lào. Phụ nữ, ngồi vào khung cửu dệt vải, dệt lụa. Nói về dệt thủ công, nhưng Trung Trữ làm từ A đến Z. Bông trồng trên đất bãi Hoàng Long, rồi thu hái, cán, cung, xe cúi, kéo sợi, guồng, dáo (hồ cơm), vò đập trong mâm bún, giũ nước sạch, phơi khô, đánh ống để mắc go, nhể bìa, đánh suốt để lắp vào thoi dệt. Người phụ nữ ngồi vào khung dệt phối hợp đôi tay đưa thoi, hai chân đạp hai bàn đạp, mỏ ác trên đầu gật gù. Đôi mắt đưa đẩy, phát hiện sợi đứt phải nối ngay. Dệt xong một tấm vải vuông phải mất 3 ngày là nhanh. Các cô gái ngồi dệt vải, cô nào cũng trắng như trứng gà bóc, khỏe mạnh và nhanh nhẹn. Các cô thi nhau từng công đoạn. Các gia đình nền nếp theo đó mà chọn con dâu.
Trung Trữ cũng trồng dâu nuôi tằm, dệt nái. Công việc tơ tằm vất vả hơn nhiều “Làm ruộng ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng”.
Vải, nái dệt xong phải qua khâu nhuộm. Người Trữ nhuộm vải bằng củ nâu trên rừng, giữ mầu bằng nước lá trầu không, hoặc lá bàng. Vải để may váy thâm hoặc quần thâm thì qua thêm khâu trướt bùn, rồi mới giữ mầu. Sau này người ta gọi loại vải này là Kaki nâu Trung Trữ.
Trung Trữ xây dựng Hợp tác xã nông nghiệp, làm nên kỳ tích mới: “Kiến thiết đồng ruộng”. Bờ vùng, bờ thửa, kênh ngòi dọc ngang dẫn thuỷ tiêu nước, mùa mùa bội thu. Những con đường “sống trâu bổ chõi”, cứt đái lầy lội được nắn lại, đắp mới, lèn đá, trải sỏi và đến hôm nay bê tông hóa đến tận cổng ngõ mỗi nhà dân. “Điện, Đường, Trường, Trạm” thay da đổi thịt làng quê tạo đà để Trung Trữ đi lên giầu sang hạnh phúc.
                                                                                                      (Theo Bùi Đình Hiển)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mời bạn cùng đồng hành với Vầng trăng làng Trữ!