Làng Trung Trữ xã Ninh Giang huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình có lịch sử trên 500 năm tuổi.
Để có được một cái tên làng, tổ tiên Trung Trữ phải mất 27 năm (từ 1492 đến 1519) qua 3 đợt đầu đơn.
1. Theo phả họ Đinh Thế, năm Canh Dần–Hồng Đức thứ 23 (1492), cụ Đinh Thế Dong cùng một số dân làng Trường Yên Thượng ra giữ giới phía đông. Lúc đầu các cụ ở nhờ đất La Cầu để khai phá ruộng hoang.
2. Vào năm Đoan Khánh thứ tư Ất Sửu (1508), cụ Đinh Thế Dong có thêm người em là Đinh Nhữ Cần, sau đó có thêm hai người họ Lê và họ Nguyễn cùng ra giữ mốc giới, khẩn hoang. Nhận thấy do địa dư xa cách, mỗi khi làng Trường Yên có lễ lạp, các cụ lỡ về chậm hoặc đóng góp không đầy đủ, thường bị phạt vạ. Vì vậy các cụ xin phân sách xã dân và lấy tên làng là Trung Thôn. Đợt sơ khởi này gồm 9 người đầu đơn (Đinh Thế Dong, Lê Hữu Phù, Nguyễn Thế Kiên, Lê Văn Quất, Lê Cảnh Châu, Đinh Nhữ Cần, Nguyễn Ích Tráng, Nguyễn Bá Ký và Nguyễn Bá Khải). Đến năm 1512 lại xin sách xã dân tiếp, nhưng vì khó khăn về lương thực nên phải bỏ dở.
![]() |
Ngôi nhà cổ của cụ Đinh Thế Tựu, ở xóm Nam, Trung Trữ |
3. Ngày 10 tháng 12 năm Hồng Thuận thứ Năm (1513) các cụ tiếp tục đầu đơn xin sách xã dân, cử thêm 10 cụ nữa (gồm Lê Văn Quốc, Lê Thúc Khanh, Đinh Đức Thiệu, Đinh Đức Vinh, Đinh Tá, Đinh Khể, Đinh Văn Thuật, Nguyễn Văn Khủê, Đinh Nhữ Trung và Đinh Khương).
4. Đến năm Quang Thiệu thứ Tư Kỉ Mão (1519) Nhà nước cử Nha môn về chia ruộng đất và cho thành lập xã riêng biệt. Trong 1.000 mẫu ruộng chia làm 6 phần, làng Trường Yên Thượng 5 phần, làng Trung Thôn 1 phần ở nhiều xứ đồng khác nhau. Trong bát vạn sơn thì Trung Thôn được 2,5 quả núi.(đó là núi Chùa, núi Gòi và nửa núi Dếnh, cũng có thể là núi Chùa, núi Đất và nửa núi Gòi).
Về hành chính, căn cứ vào Văn tế tổ, đợt đầu làng cử cụ Đinh Thế Dong làm xã Chánh, cụ Lê Hữu Phù làm xã sứ, cụ Nguyễn Thế Kiên làm tiến công lang. Đến đợt sau làng lại bầu cụ Đinh Thế Dong làm xã chánh, cụ Nguyễn khắc Nhân làm xã sứ, cụ Đinh Khể làm xã thần. Sinh đồ Lê Văn Quốc hoàn chỉnh địa bạ và làm đơn xin gia nhập tổng Bạch Cừ.
Xem xét các bờ giới cũ, căn cứ vào câu phương ngôn : “chùa Bần, núi Đất, đường Cộc, rộc Cùng”. Chúng tôi cho rằng đây là bản đồ đầu tiên của làng Trung Trữ.
* Chùa Bần: được xây dựng tại chân núi Gòi, lợp tranh, có lẽ vì thế gọi là bần (nghèo).
* Núi Đất: Vườn Tớp (cầu Gỗ từ xóm Đông ra sau đồng).
* Đường Cộc: đường từ xóm Tây đến bến Hàng.
* Rộc Cùng: từ ngòi Gấm, nội Dện, cửa Đình, xuống Quán Vinh, hết cánh đồng Tắc Giang.
* Chùa Bần: được xây dựng tại chân núi Gòi, lợp tranh, có lẽ vì thế gọi là bần (nghèo).
* Núi Đất: Vườn Tớp (cầu Gỗ từ xóm Đông ra sau đồng).
* Đường Cộc: đường từ xóm Tây đến bến Hàng.
* Rộc Cùng: từ ngòi Gấm, nội Dện, cửa Đình, xuống Quán Vinh, hết cánh đồng Tắc Giang.
Như vậy, năm 1492 Cụ Đinh Thế Dong đặt nhát cuốc đầu tiên cho sự hình thành một làng mới nên được coi là năm thành lập làng Trung Trữ.
Và, sau 27 năm, qua 3 đợt đầu đơn Nhà nước đã chia ruộng đất, núi sông cho thành lập xã mới – xã Trung Trữ. Năm 1519 là năm chính thức hóa về mặt Hành chính Quốc gia.
Và, sau 27 năm, qua 3 đợt đầu đơn Nhà nước đã chia ruộng đất, núi sông cho thành lập xã mới – xã Trung Trữ. Năm 1519 là năm chính thức hóa về mặt Hành chính Quốc gia.
* Lý giải về đặt tên làng là Trung Trữ, nhiều bậc cao niên sống ở đầu thể kỉ XX nói rằng: đây là nơi tập trung kho lương từ thời Đinh Lê, với các kho mắm muối ở gần hang núi, trên bến dưới thuyền.
Những tên làng trong quá khứ:
* Trung Thôn: ghi trong phả họ Đinh Thế.
* Trung Trữ: trong “mộc phả” có tiêu đề “Đinh – Lê – Nguyễn tam hộ cộng lập” lưu tại từ đường họ Đinh Thế, theo đó làng có tên là Trung Trữ.
* Trung Phong: xuất hiện trong một số bài tấu, bài ca dùng trong tế lễ. Theo ngọc phả làng Bãi Trữ, đô đốc Vũ Đình Huấn đã lấy ngọn núi giữa làng Trung Trữ làm đài chỉ huy đánh thắng đồn Gián Khẩu, đặt tên núi là Trung Phong, theo đó làng có tên Trung Phong.
Cũng có tài liệu nói Trung Phong là một trong ba cửa ngõ Tam Phong của kinh đô Hoa Lư thời Vua Đinh./.
* Trung Thôn: ghi trong phả họ Đinh Thế.
* Trung Trữ: trong “mộc phả” có tiêu đề “Đinh – Lê – Nguyễn tam hộ cộng lập” lưu tại từ đường họ Đinh Thế, theo đó làng có tên là Trung Trữ.
* Trung Phong: xuất hiện trong một số bài tấu, bài ca dùng trong tế lễ. Theo ngọc phả làng Bãi Trữ, đô đốc Vũ Đình Huấn đã lấy ngọn núi giữa làng Trung Trữ làm đài chỉ huy đánh thắng đồn Gián Khẩu, đặt tên núi là Trung Phong, theo đó làng có tên Trung Phong.
Cũng có tài liệu nói Trung Phong là một trong ba cửa ngõ Tam Phong của kinh đô Hoa Lư thời Vua Đinh./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Mời bạn cùng đồng hành với Vầng trăng làng Trữ!