Theo Dư địa chí Ninh Bình, không gian văn hóa Hoa Lư tứ trấn là khái niệm chỉ vùng văn hóa kinh đô Hoa Lư được bởi giới hạn trong tầm ảnh hưởng của 4 ngôi đền thiêng thờ các vị thần, thánh trấn giữ 4 hướng chính vào kinh thành xưa – nay là cố đô. Không gian này nằm trong phạm vi 5 km từ trung tâm cố đô Hoa Lư. 4 Ngôi đền chính của Hoa Lư tứ trấn: Đông - Tây - Nam - Bắc lần lượt là: đền Thiên Tôn, đền Cao Sơn, đền Quý Minh và đền Thánh Nguyễn.
Đặc điểm chung của Hoa Lư tứ trấn:
Kinh đô Hoa Lư xưa có 3 vòng thành: thành ngoài, thành trong và thành nam với diện tích mỗi thành khoảng 1,4km2. Riêng thành nam (còn gọi là Tràng An) có thêm phần núi non hiểm hóc bao bọc. Đinh Tiên Hoàng đế là người sùng đạo phật , Vua cho xây dựng ở trong kinh đô Hoa Lư rất nhiều chùa tháp. Bên cạnh đó ở Hoa Lư cũng xuất hiện rất nhiều các ngôi đền để thờ các vị thần, thánh theo tín ngưỡng dân gian.
Các vị thần trấn giữ ba hướng cửa vào thành ngoài, thành trong và thành nam được Vua Đinh Tiên Hoàng cho xây dựng đền thờ gồm động Thiên Tôn thờ thần Thiên Tôn, là vị thiên thần trấn đông hướng mặt trời mọc. Xưa nơi đây là tiền đồn để trình báo khi vào kinh đô Hoa Lư từ phía Đông. Trước lúc đem quân đi dẹp loạn 12 sứ quân, Vua đã sửa lễ vật vào cầu đảo trong động để mong được thần giúp đỡ. Về sau nơi đây nhà vua cho xây cất nhà Tiền Tế và Kính Thiên Đài là nơi tiếp đón các sứ thần nước ngoài trước khi nhà vua cho vào bệ kiến. Ngày nay ở quanh khu vực đền Thiên Tôn vẫn còn 7 ngôi đền khác thờ thần Thiên Tôn, vị thần có nguồn gốc phát tích ở Hoa Lư. Tiêu biểu như các ngôi đền ở quanh chân núi Cánh Diều, chùa Phong Phú, các làng Bích Đào, Đại Phong, Yên Cư, Lực Giá và Phú Gia.
Đền thờ thần Quý Minh, là vị thổ thần, thủy thần trấn cửa Nam có rất nhiều đền nằm rải rác ở vùng sông núi Tràng An như đền Dưỡng Khê, đền Đô, đền Hiềm, các di tích ở làng Thiện Trạo, xã Ninh Sơn và làng Phúc Trì, thành phố Ninh Bình, đền Miếu Sơn (Ninh Vân, Hoa Lư) đình Bình Khang (Liên Sơn, Gia Viễn. Ngôi đền chính hiện được xác định ở xã Ninh Nhất, thành phố Ninh Bình. Theo truyền thuyết, thần Quý Minh là người đánh dẹp các thế lực ở vùng thấp, có thể giúp thần Cao Sơn khi các thế lực bỏ chay qua đây. Thần cai quản và kết hôn cùng bà quận chúa ở chốn này. Ở gần ngôi đền này còn đền Trần ở khu sinh thái Tràng An cũng thờ thần Quý Minh. Từ đầu thời Trần đền được đổi tên thành đền Trần, là ngôi đền do vua Đinh Tiên Hoàng xây dựng cùng thời với đền Hùng, sau này được vua Trần Thái Tông cải tạo bề thế hơn, là nơi thờ thần Quý Minh, vị thần trấn cửa ải phía nam Hoa Lư từ thời Hùng Vương thứ 18. Đền còn có tên là đền Nội Lâm (cùng với Vũ Lâm, Văn Lâm hợp thành Tam Lâm dưới triều Trần).
Theo truyền thuyết, thần Cao Sơn là một vị thần ở Phụng Hóa (Ninh Bình) có công phù trợ quân Lê Tương Dực diệt được Uy Mục, sau cũng được dân làng Kim Liên rước về thờ ở trấn phía Nam kinh thành, một trong Thăng Long tứ trấn. Cao Sơn đại vương khi vâng mệnh vua anh đi tuần từ vùng Nam Lĩnh đến vùng Thiên Dưỡng, đã tìm ra một loài cây thân có bột dùng làm bánh thay bột gạo, lấy tên mình đặt tên cho cây là Quang lang (dân địa phương vẫn gọi là cây quang lang hay cây búng báng). Thần đã dạy bảo và giúp đỡ người dân làm ăn sinh sống đồng thời bảo vệ khỏi các thế lực phá hoại vì vậy đã được Vua Đinh cho phép dân lập đền thờ để bảo vệ kinh đô từ hướng tây trên núi Đính. Ngoài ngôi đền này ở vùng núi Tam Điệp Ninh Bình còn khoảng 25 ngôi đền khác thờ thần Cao Sơn. Một số đền có vai trò quan trọng như: đền Núi Hầu xã Yên Thắng - Yên Mô là nơi phát hiện 5 sắc phong thời Tây Sơn, đền Quèn Thờ xã Đông Sơn - Tam Điệp, xưa khi mang đại quân ra Bắc chinh phạt 29 vạn quân Thanh, Vua Quang Trung đã lên thắp hương xin kế phá giặc ở một ngôi đền thờ thần Cao giữa lưng chừng núi. Vua Quang Trung đã được thần báo mộng ở đây và hứa sẽ xây lên đỉnh núi nếu thắng trận. Sau khi thắng trận vị vua này đã cho di rời Đền lên đỉnh núi; đền Sơn Thần ở Gia Thủy - Nho Quan là nơi Đinh Bộ Lĩnh đã được mẹ đưa vào sống khi cha mất. Cao Sơn là vị thần trấn ngự ở các đỉnh núi cao phía tây Hoa Lư – Tam Điệp.
Theo truyền thuyết, thần Cao Sơn là một vị thần ở Phụng Hóa (Ninh Bình) có công phù trợ quân Lê Tương Dực diệt được Uy Mục, sau cũng được dân làng Kim Liên rước về thờ ở trấn phía Nam kinh thành, một trong Thăng Long tứ trấn. Cao Sơn đại vương khi vâng mệnh vua anh đi tuần từ vùng Nam Lĩnh đến vùng Thiên Dưỡng, đã tìm ra một loài cây thân có bột dùng làm bánh thay bột gạo, lấy tên mình đặt tên cho cây là Quang lang (dân địa phương vẫn gọi là cây quang lang hay cây búng báng). Thần đã dạy bảo và giúp đỡ người dân làm ăn sinh sống đồng thời bảo vệ khỏi các thế lực phá hoại vì vậy đã được Vua Đinh cho phép dân lập đền thờ để bảo vệ kinh đô từ hướng tây trên núi Đính. Ngoài ngôi đền này ở vùng núi Tam Điệp Ninh Bình còn khoảng 25 ngôi đền khác thờ thần Cao Sơn. Một số đền có vai trò quan trọng như: đền Núi Hầu xã Yên Thắng - Yên Mô là nơi phát hiện 5 sắc phong thời Tây Sơn, đền Quèn Thờ xã Đông Sơn - Tam Điệp, xưa khi mang đại quân ra Bắc chinh phạt 29 vạn quân Thanh, Vua Quang Trung đã lên thắp hương xin kế phá giặc ở một ngôi đền thờ thần Cao giữa lưng chừng núi. Vua Quang Trung đã được thần báo mộng ở đây và hứa sẽ xây lên đỉnh núi nếu thắng trận. Sau khi thắng trận vị vua này đã cho di rời Đền lên đỉnh núi; đền Sơn Thần ở Gia Thủy - Nho Quan là nơi Đinh Bộ Lĩnh đã được mẹ đưa vào sống khi cha mất. Cao Sơn là vị thần trấn ngự ở các đỉnh núi cao phía tây Hoa Lư – Tam Điệp.
Trấn bắc Hoa Lư là ngôi đền thờ thánh Nguyễn, nó không được xây dựng từ thời Đinh như 3 đền kia mà sau đó 2 thế kỷ. Đền thờ thánh Nguyễn Minh Không - một người con của đất Hoa Lư được nhân dân phong thánh. Lý Quốc Sư là tên gọi chức danh pháp lý cao nhất của thiền sư, pháp sư Nguyễn Minh Không. Tên gọi này để chỉ ông là một cao tăng có chức vị đứng đầu của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam . Cũng bởi có nhiều công lao trong việc chữa bệnh cho vua và nhân dân mà ông cùng với Trần Hưng Đạo sau này là những nhân vật lịch sử có thật được người Việt tôn sùng là đức thánh Nguyễn, đức thánh Trần. Trong dân gian, Nguyễn Minh Không còn được coi là một vị thánh trong tứ bất tử ở Việt Nam và ông tổ nghề đúc đồng. Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không tên thật là Nguyễn Chí Thành sinh tại xã Đàm Xá, phủ Tràng An, Ninh Bình. Là một thiền sư giỏi về Phật pháp, giỏi cả pháp thuật, có công chữa bệnh cho vua Lý, là ông tổ của nghề đúc đồng... Nguyễn Minh Không được tôn là đức Thánh Nguyễn bên cạnh chức danh Quốc sư triều Lý. Dân gian có câu:
Đại Hữu sinh Vương
Điềm Dương sinh Thánh
Trong hai câu ca trên thì vương ở đây chỉ vua Đinh Tiên Hoàng, Thánh chỉ Nguyễn Minh Không. Hai ông được sinh ra ở hai làng liền kề nhau thuộc huyện Gia Viễn. Đền Thánh Nguyễn là một công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị lớn. Xung quanh đền còn khá nhiều nơi thờ thiền sư Minh Không như: Đền thờ Nguyễn Minh Không ở chùa Bái Đính là nơi ông đã phát hiện ra các động và biến chúng thành chùa khi đến đây tìm cây thuốc chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông. Tại chùa Địch Lộng ở huyện Gia Viễn, nơi được mệnh danh là “Nam thiện đệ tam động”, tức động đẹp thứ 3 của trời Nam cũng có đền thờ và tượng của ông. Khu di tích động Hoa Lư thì phối thờ tượng ông cùng với tượng vua Đinh Tiên Hoàng trong ngôi đền cổ. Lý Quốc Sư còn được thờ ở đình Ngô Đồng, xã Gia Phú, Gia Viễn và đền thờ Tô Hiến Thành ở bên sông Hoàng Long, chùa Nhất Trụ và động Am Tiên ở cố đô Hoa Lư. Tại đền Thượng xã Khánh Phú và đền Tam Thánh ở xã Khánh An, Yên Khánh ông được suy tôn là đức thánh cả.
Từ Hoa Lư tứ trấn tới Thăng Long tứ trấn:
Từ Hoa Lư tứ trấn tới Thăng Long tứ trấn:
Điểm giống nhau giữa Hoa Lư tứ trấn và Thăng Long tứ trấn chính là ở các đối tượng được thờ ở những ngôi đền thiêng này. Cả 2 nơi đều thờ 3 thần + 1 thánh. Thần là tượng trưng cho sức mạnh thiên nhiên, thánh là nhân vật lịch sử có thật với công lao phi thường được nhân dân phong thánh. Cả 2 nơi đều thờ thần Cao Sơn có nguồn gốc phát tích ở Phụng Hóa (Nho Quan – Ninh Bình). Thần Thiên Tôn và Thần Trấn Vũ là những thiên thần xuất xứ xa xưa từ phương Bắc đến, thần Bạch Mã và thần Quý Minh là những vị thổ thần. Nếu quay vòng hệ thống Hoa Lư tứ trấn một góc 90 ngược chiều kim đồng hồ thì sẽ nhận được sự trùng lặp hình thức tín ngưỡng trên.
Không gian văn hóa Hoa Lư tứ trấn:
Không gian Hoa Lư tứ trấn chỉ chiếm 5,6% diện tích Ninh Bình nhưng lại có vai trò rất quan trọng làm nên bản sắc văn hóa đặc trưng và độc đáo của vùng đất này. Trong bán kính 5 km của không gian Hoa Lư tứ trấn tính từ tâm quay tại quảng trường lễ hội đền Đinh – Lê các nhà nghiên cứu đã thống kê được 750 di tích với mật độ di tích đậm đặc trong đó chiếm tỷ lệ cao là 31% di tích lịch sử văn hóa, 28% là di tích thắng cảnh, 17% là di tích kiến trúc nghệ thuật, 9% là di tích khảo cổ học còn lại là các di tích loại khác.
Các đền, đình chiếm số lượng lớn, trong đó mang giá trị nổi bật hơn hẳn phải kể đến 6 đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng 4 đền Vua Lê Đại Hành, đền thờ các quan và hoàng tử, công chúa của 2 triều đại Đinh Lê. Hệ thống phủ thờ, lăng tẩm cũng khá đa dạng với nhiều di sản tư liệu hán nôm quý báu.
Hệ thống chùa cổ ở Hoa Lư vẫn tồn tại hầu như nguyên vẹn về số lượng cho tới ngày nay. Sau khi đã là kinh đô, Hoa Lư dần trở thành trung tâm Phật giáo. Vào thế kỷ 10, tại đây đã có khá nhiều chùa tháp như chùa Bà Ngô, chùa Cổ Am, chùa Duyên Ninh, chùa Am Tiên, chùa Tháp, chùa Bàn Long, chùa động Thiên Tôn, chùa Hoa Sơn (nhà Đinh); chùa Kim Ngân, chùa Nhất Trụ (nhà Tiền Lê). Theo chính sử, Vua Đinh Tiên Hoàng là người đầu tiên đặt chức tăng thống phật giáo trong lịch sử mà quốc sư đầu tiên của Việt Nam là Khuông Việt. Điều độc đáo ở đây là có khá nhiều chùa được xây dựng trong các hang núi đá vôi, dựa vào núi đá hoặc tận dụng hẳn núi đá làm chùa mà tiêu biểu là các động chùa: Hoa Sơn, Thiên Tôn, Am Tiên, Cổ Am, Bái Đính, Liên Hoa…
Tràng An vào hội
Chùa Nhất Trụ được Vua Lê Đại Hành xây dựng để mở mang phật giáo. Hiện còn cột kinh Phật trước chùa vẫn giữ nguyên vẹn từ nghìn năm trước, được coi là thạch kinh cổ nhất Việt Nam . Chùa Bái Đính nằm ở vùng đất hội tụ đầy đủ yếu tố nhân kiệt theo quan niệm dân gian Việt Nam, đó là đất sinh Vua, sinh Thánh, sinh Thần. Chùa Bái Đính được các báo giới tôn vinh là khu chùa lớn nhất Đông Nam Á. Đây là một siêu chùa thuộc khu di tích cố đô Hoa Lư với nhiều kỷ lục được xác lập. Chùa Kim Ngân là một ngôi chùa cổ nằm ở thôn Chi Phong, thuộc vòng thành trong ở phía tây, xưa là nơi cất giữ vàng bạc từ khi Vua Lê Đại Hành cày tịch điền ở ruộng Kim Ngân. Chùa Duyên Ninh xưa là nơi vui chơi của các công chúa, nơi đây Lý Thái Tổ và công chúa Lê Thị Phất Ngân đã thề hẹn ở đó mà sinh ra Lý Thái Tông. Chùa Bà Ngô được xây từ thời nhà Đinh. Nằm bên phải bờ sông Hoàng Long thuộc khu vực ngoại vi thành Hoa Lư xưa. Tấm bia đá dựng ở chùa, niên đại 1877 có đoạn: "Chùa Bà Ngô trong ấp ta là một danh lam của đô cũ Đại Việt trước. Vốn là một danh thắng nhưng do thế đại chuyển dời, phong quang thay đổi, am ngọc quạnh quẽ dưới ánh dương tà, chùa báu điêu tàn trơ trọi trong ánh trăng đêm". Tương truyền là nơi hoàng hậu mẹ Ngô Nhật Khánh tu hành. Chùa Bà Ngô ở thế kỷ thứ X chính là nơi tiến hành nghi thức sám hối, rửa sạch mọi tội lỗi nghiệp chướng trần gian. Tại đây còn khai quật được ngôi mộ cổ thời Hán – Đường. Chùa Bàn Long cũng được hình thành từ thời Đinh. Khi chúa Trịnh Sâm đã đến thăm, tay đề ba chữ lớn: “Bàn Long Tự” trên vách cửa động. “Bàn Long” là bệ rồng - bệ đá rồng ngồi. Tấm bia ở vách núi khắc vào thế ký 16 có ghi: “Từ thành cổ Hoa Lư men theo núi đá mà đi về phía nam đến làng Khê Đầu, ở đó có chùa Bàn Long. Đây là danh thắng từ ngàn xưa. Trải các triều Đinh, Lê, Lý, Trần chùa này càng thêm nổi tiếng”. Hoa Sơn động nằm ở Áng Ngũ, ở độ cao gần 70 mét. Tương truyền động Hoa Sơn là nơi nuôi Ấu chúa thời vua Đinh. Chùa động Am Tiên như một thế giới riêng biệt. Có một tấm bia cổ, từ thời Lý, chữ đã mờ hết đọc không được. Nhưng tấm bia dựng thời Vua Ðồng Khánh, chữ viết còn rõ ràng, nói về việc tu sửa chùa và động. Đây là nơi vua Đinh Tiên Hoàng nuôi hổ báo để trừng trị những người phạm tội nặng. Đến thời Lý, nhà sư Nguyễn Minh Không đã ở trong hang tụng kinh thuyết pháp, xây bệ thờ Phật ở trong hang, người đời sau mới mở ra cảnh chùa chiền để khách thập phương hành hương đến đó.
Các di tích thắng cảnh ở Hoa Lư chính là điểm nhấn bổ sung về mặt hình thức cho cố đô Hoa Lư thêm phần hấp dẫn và hoa lệ. Khu vực Tràng An được bao bọc bởi các dãy núi đá vôi hình cánh cung giữa vùng chiêm trũng ngập nước đã trải qua thời gian dài biến đổi địa chất tạo thành. Các nhà địa chất khẳng định khu Tràng An xưa là một vùng biển cổ, qua quá trình vận động địa chất mà kiến tạo nên. Nơi đây như một "bảo tàng địa chất ngoài trời". Tràng An có hệ thống núi đá vôi và hang động tự nhiên hết sức đa dạng, có tuổi từ 32 triệu năm đến 6.000 năm. Dưới chân các núi đá vôi, nhiều nơi còn có các hàm ếch, là dấu tích của biển. Chính vì vậy vùng núi đá vôi Hoa Lư – Ninh Bình được gọi là “Hạ Long trên cạn”. Nghiên cứu cho thấy, vỏ trái đất khu vực Tràng An – Tam Cốc có lịch sử phát triển địa chất từ 245 triệu năm đến nay gồm 6 hệ tầng tuổi Trias và hệ tầng Đệ Tứ. Khối karst cổ Tràng An – Tam Cốc mang đặc điểm nhiệt đới điển hình: những dãy núi đá hoặc khối đá vôi sót cao 150 - 200m có đỉnh dạng tháp, vòm, chuông và sườn vách dốc đứng. Phần rìa khối là các thung lũng bằng phẳng dễ úng ngập vào mùa mưa. Đặc điểm này tạo cảnh quan nhiều dãy núi đá vôi thấp trùng điệp bao quanh các thung lũng là những hồ nước nối tiếp nhau, vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Trong hệ thống hang động karst đặc sắc nhất là loại "hang sông" nằm ngang xuyên qua lòng các dãy núi lớn, ngập nước thường xuyên. Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật thống kê, riêng khu Tràng An có 50 hang nước và 50 hang khô tập trung thành cụm với cấu tạo theo tầng lớp và liên hoàn do dấu vết thời kỳ biển tiến, biển thoái nên nước xâm thực, liên thông các hang động với nhau. Ở đây là các thung được nối liền với nhau bởi các hang động xuyên thủy. Những hang, động này chuyển tải nước đối lưu chảy thông từ khe núi này đến khe núi khác. Theo số liệu thống kê 2007, tại Tràng An có chừng hơn 310 loại thực vật bậc cao, một số thuộc diện quý hiếm như sưa, lát, nghiến, phong lan, hoài sơn, kim ngân, bách bộ, rau sắng, v.v. Tràng An có chừng 30 loài thú, hơn 50 loài chim, trong đó một số loài thú quý hiếm như sơn dương, báo gấm, chim phượng hoàng.
Là kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến tập quyền Việt Nam , Hoa Lư còn là đất tổ sản sinh nhiều giá trị văn hóa thuần Việt. Kinh đô này là đất tổ của nghệ thuật sân khấu chèo mà người sáng lập là bà Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong hoàng cung nhà Đinh. Đây là loại hình sân khâu tiêu biểu nhất của Việt Nam . Các truyền thuyết lịch sử hát Tuồng cũng ghi rằng loại hình ngày hình thành vào thời Tiền Lê năm 1005, khi một kép hát người Tàu tên là Liêm Thu Tâm đến Hoa Lư và trình bày lối hát xướng thịnh hành bên nhà Tống và được vua Lê Long Đĩnh thâu dụng, bổ là phường trưởng để dạy cung nữ ca hát trong cung. Nơi đây cũng là quê hương của nhiều vị thủy tổ, tổ nghề Việt Nam .
Trong không gian Hoa Lư tứ trấn còn có nhiều lễ hội đặc sắc và những làng nghề truyền thống đủ điều kiện phát triển du lịch văn hóa. Nhiều loại ẩm thực đặc sắc được Ninh Bình có kế hoạch bảo tồn phát huy như Khoai lang Hoàng Long, Cá rô Tổng Trường, Dê núi…(ST)
Trong không gian Hoa Lư tứ trấn còn có nhiều lễ hội đặc sắc và những làng nghề truyền thống đủ điều kiện phát triển du lịch văn hóa. Nhiều loại ẩm thực đặc sắc được Ninh Bình có kế hoạch bảo tồn phát huy như Khoai lang Hoàng Long, Cá rô Tổng Trường, Dê núi…(ST)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Mời bạn cùng đồng hành với Vầng trăng làng Trữ!