Đến triều Thuần Phúc (1562 -1565) niên hiệu Mạc Phúc Nguyên, Hương trưởng là Nguyễn Điêu, hiệu Nguyễn Bá Liêu, làng đã có 400 dân. Theo thống kê trước cách mạng tháng Tám năm 1945, Trung Trữ có 589 suất đinh. Ruộng đất chỉ có 137 mẫu Bác bộ. Bình quân chưa đầy 3 sào. Bình quân đầu người chỉ hơn 1 sào.
Đến năm 2004, Trung Trữ có 648 hộ, 2.114 nhân khẩu, chia thành 3 xóm, gồm: xóm Nam, xóm Đông, xóm Tây.
Đến năm 2004, Trung Trữ có 648 hộ, 2.114 nhân khẩu, chia thành 3 xóm, gồm: xóm Nam, xóm Đông, xóm Tây.
Quá khứ đã có nhiều sự phân chia xóm khác nhau. Đầu thế kỉ XX có 5 xóm: xóm Dứa (Nam), xóm Giữa (Trung Đông), xóm Đông, Xóm Tây, xóm Đình.
Thời kì Hợp tác hóa chia xóm nhỏ hơn theo Đội sản xuất. Gồm:
Nam1, Nam 2, Nam 3, Nam 4 thuộc Hợp tác xã Nam Tiến
Xóm Đông, Trung Đông thuộc Hợp tác xã Đông Phương Hồng
Tây Bằng, Tây Sơn, xóm Đình thuộc Hợp tác xã Hồng Kỳ
Sát nhập 3 hợp tác xã trên thành Hợp tác xã Trung Trữ
Sau hợp với hợp tác xã Bãi Trữ thành Hợp tác xã Trung Bãi Trữ.
Quy mô dân số: Mặc dù có sự bùng nổ dân số ở thế kỉ 20 nhưng Trung Trữ luôn giữ ở con số khoảng 2.000 nhân khẩu. Sở dĩ như vậy, vì Trung Trữ đã có một số cuộc di cư lớn, nhất là thời kì những năm 60 thế kỉ XX dưới hình thức đi khai hoang (Hoà Bình, Tuyên Quang), sau năm 1975 là Bạc Liêu. Nhiều nhất là định cư tại Thành phố Ninh Bình, Thủ đô Hà Nội, tỉnh Hoà Bình,Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Nguyên..
Và, nguyên nhân không kém phần quan trọng là quy mô gia đình nhỏ (hai con) đã được thực hiện tốt ở Trung Trữ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Mời bạn cùng đồng hành với Vầng trăng làng Trữ!