Thứ Sáu, 21 tháng 10, 2011

Trung Trữ trong cộng đồng thôn xã qua các thời kì

Tháng Giêng năm 1946, các làng: Trung Trữ, Bãi Trữ và Phong Phú hợp thành xã Trung Sơn; làng La Mai và La Vân hợp thành xã Liên Mai.
Tháng 11 năm 1948 Trung Sơn và Liên Mai hợp thành xã Liên Sơn.
Tháng 7 năm 1949 Liên Sơn hợp với Hợp Thành thành xã Ninh Hòa.
Tháng 7 năm 1954 Ninh Hòa tách ra hai xã như cũ.
Xã Liên Sơn cũ đổi tên thành xã Ninh Giang như ngày nay.
Theo văn tế tổ làng, Trung Trữ có chin họ, (cửu tộc), gồm:
1. Họ Đinh. Thủy tổ là cụ Đinh Thế Dong, dòng dõi Đinh Tiên Hoàng, gốc làng Đại Hữu. Cụ có công đầu lập nên làng Trung Trữ, được tôn là Hương Tiên thờ tại đình làng
2. Họ Lê – Thủy tổ cũng từ Trường Yên Thượng ra, cùng người họ Đinh và họ Nguyễn lập nên làng.
3. Họ Nguyễn – Thủy tổ cũng từ Trường Yên Thượng ra cùng người họ Đinh họ Lê lập nên làng.
Ba họ Đinh, Lê, Nguyễn cùng nhau đầu đơn xin lập xã mới. Đây là ba họ đầu tiên lập nên làng Trung Trữ.
Con cháu nối đàn, đến nay đã trên 500 năm.
4. Họ Bùi. Thủy tổ gốc làng Phù Đổng Bắc Ninh. Cụ là Suất Đội của Mĩ Quận công Bùi Danh Khuê, tướng quân của Mạc Mậu Hợp. Người con thứ ba của cụ là Bùi Huy từ La Mai ra Trung Trữ lập nghiệp. Cụ Bùi Huy trở thành thủy tổ họ Bùi Trung Trữ. Đời thứ 9 có cụ Bùi Quốc Trinh (1805 – 1876) đỗ cử nhân, làm quan Án Sát, có nhiều công lao với làng. Được dân làng tôn là Hương Quan, thờ tại đình làng.
Khi làng lập Văn tế Tổ làng, Trung Trữ đã  có chín họ, gồm:

Họ Nguyễn (ngoại), Họ Vũ,  Họ Ngô, Họ Đoàn, Họ Phạm, tạo thành cửu tộc có tên trong văn tế tổ làng.
Ngoài chín họ tộc ghi trong văn tế, theo sự phát triển của xã hội, nhiều dòng họ đến sau lập nghiệp tại làng Trung Trữ. Cũng là họ Đinh, nay thêm Đinh Duy, Đinh Văn, Đinh Hữu, Họ Nguyễn, họ Bùi, Họ Vũ cũng vậy.
Các dòng họ đến lập nghiệp tại mảnh đất này dù sớm hay muộn đã đoàn kết, chung tay giữ làng, góp phần dựng xây đất nước, làm nên một làng Trữ giầu truyền thống và bản sắc Văn hóa. Một minh chứng là một gia đình họ Đinh rời bản quán đến Trung Trữ hồi trước Cách mạng tháng Tám 1945. Đất Trung Trữ đã giúp Gia đình họ Đinh này vượt qua nạn đói Ất Dậu, và đóng góp cho Trung Trữ 3 lão thành cách mạng, 1 cán bộ tổ chức dày dạn kinh nghiệm và 1 phó Chủ tịch tỉnh được học hành, đào tạo bài bản.
Trung Trữ không quên nguồn cội của mình từ Trường Yên Thượng – đất của vua Đinh, vua Lê.
Người Trung Trữ, xây đình thờ Vua Đinh Tiên Hoàng, vua Lê Đại Hành, Thái hậu Dương Vân Nga, Hoàng gia triều Đinh, Hoàng gia triều Lê, Tứ trụ triều đình. Tôn các vị là thần thành hoàng làng.
Ở vùng này, chỉ có đình Trung Trữ là thờ tự như vậy. Ngày 8/3 âm giỗ Vua Lê, ngày 16/8 âm giỗ vua Đinh, Ngày 15/10 lễ Kỳ Phúc. Đến nay vẫn tế lễ hàng năm.
Đinh Bộ Lĩnh người làng Đại Hữu – Ninh Bình, khởi nghiệp nhà Đinh, dẹp loạn 12 sứ quân, lập nên triều đại độc lập tự chủ đầu tiên của Đại Việt. Kinh đô Hoa Lư sánh ngang hàng kinh đô Tràng An
Lê Hoàn người Thanh Hóa, lên ngôi ở kinh đô Hoa Lư, đánh tan mấy vạn quân Tống xâm lược, bình Chiêm giữ yên bờ cõi.
Hai vị vua – hai anh hùng dân tộc, nhân dân Trung Trữ là hậu duệ tạc tượng thờ hai vị trong long ngai, ngồi trên long sàng. Giỗ kị hàng năm.
Thái hậu Dương Vân Nga – Người Nho Quan Ninh Bình (có thuyết nói bà người Văn Lung) Bà được tạc tượng thờ trong long ngai, ngồi bên tả, nhìn thẳng.
Đinh Tiên Hoàng bị ám hại, để lại con trai 6 tuổi kế nghiệp Hoàng Ðế, Dương Vân Nga đã phải cáng đáng những khó khăn vượt quá sức mình.
Sự nghiệp thống nhất đất nước vừa được hoàn thành, bị đe doạ từ nhiều phía. Bên ngoài phong kiến phương Bắc sửa soạn đại binh xâm lược. Bên trong, các triều thần tranh chấp gay gắt có nguy cơ nổ ra nội chiến lớn. Là người có tầm nhìn xa thấy rộng, Dương Vân Nga nhận rõ chỉ có Thập Ðạo tướng quân Lê Hoàn là người có khả năng giải quyết tình hình nghiêm trọng ấy.
Khi đề cao võ công văn trí của Ðinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn, những anh hùng của công cuộc thống nhất đất nước không thể không kể đến sự cống hiến của Dương Vân Nga đối với đất nước. Có thể xem Dương Vân Nga là cầu nối giữa Ðinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn, người làm cho công cuộc thống nhất đất nước do Ðinh Bộ Lĩnh khởi xướng được Lê Hoàn hoàn tất. Sự nghiệp chính trị của người phụ nữ ấy đã không được sử liệu chú ý đến mà lại cứ tập trung vào thân phận làm vợ của bà.
Nếu Dương Vân Nga không biết đặt lợi nước lên trên quyền lợi của dòng họ, bà có thể dựa vào một quyền thần để chống lại quyền thần khác, ngoan cố bảo vệ ngai vàng cho đứa con nhỏ của mình, sẽ gây ra nạn bè đảng, tranh chấp, đẩy đất nước vào hoàn cảnh rối loạn. Vậy mà chỉ vì Dương Vân Nga đã lấy chiếc long bào choàng lên vai Lê Hoàn, về sau lại trở thành vợ Lê Hoàn mà sử sách phong kiến đã xoá sạch công lao của bà. Ngược lại cách nhìn nhận trên, nhân dân ta có thái độ rộng lượng và đúng đắn. Vùng Hoa Lư còn lưu truyền thuyết đẹp về Dương Vân Nga nhằm ghi nhận công lao của bà.
Sau khi mất bà Dương Vân Nga được nhân dân tạc tượng thờ. Tương truyền xưa kia tượng bà được thờ ở đền vua Ðinh. Ðến thời hậu Lê, có viên quan cho rằng “xuất giá tòng phu”, nên mới rước bà sang đền vua Lê, người đời vẫn để bà quay mặt về phía đền vua Ðinh với ý nghĩa là bà vẫn có tình nghĩa với nhà Ðinh.
Có một điều rất độc đáo là bức tượng bà Dương Vân Nga thờ tại đền Lê có chiều sâu nội tâm thay đổi theo 3 góc nhìn khác nhau. Nếu nhìn chính diện, ta thấy bà hiện lên như một bậc mẫu nhi thiên hạ, đoan trang, phúc hậu, hơi có vẻ nghiêm nghị, lạnh lùng. Nếu nhìn nghiêng theo bên phải (từ trong ra) bà hiện ra với khuôn mặt buồn bã, tựa như khi chứng kiến cảnh đất nước trước nguy cơ “nghìn cân treo sợi tóc”. Còn nhìn nghiêng theo bên trái (từ ngoài vào) ta lại thấy khuôn mặt ấy đã thay đổi: gương mặt bà thanh thoát, tươi tắn hơn với nụ cười mỉm. Cái tài hoa của người tạc bức tượng là ở chỗ: vẫn là một con người nhưng nhìn từ những góc độ riêng ta sẽ thấy hiện lên ba gương mặt, ba tâm trạng khác nhau.
Ở đình Trung Trữ, tượng Thái hậu Dương Vân Nga được thờ trong hậu cung gian bên phải, ngồi trong long ngai.
In bài này

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mời bạn cùng đồng hành với Vầng trăng làng Trữ!